Blog PhamTon năm thứ sáu, tuần 2 tháng 8 năm 2014.
GIÁO SƯ HỒ SĨ QUÝ:
RẤT CẦN MỘT BẢNG GIÁ TRỊ KHÔNG LỆCH LẠC
Thảo Nguyên (thực hiện)
(Bài thu từ www.vanhoanghean.com.vn phát ngày thứ sáu, 9/3/2012 lúc 4:04)
—o0o—
Văn Hóa Nghệ An: Gần đây, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã ra nghị quyết 4 về chỉnh đốn Đảng. Xét cho cùng đây cũng chính là vấn đề Con Người, vấn đề văn hoá, tất nhiên là khu biệt ở cộng đồng cán bộ, đảng viên của Đảng. Để có thể có một cái nhìn toàn diện hơn vấn đề này từ trong chiều sâu tâm thức văn hoá, đặt vấn đề trong tổng thể cộng đồng dân tộc, Văn Hóa Nghệ An đã có cuộc trao đổi với giáo sư, tiến sĩ triết học Hồ Sĩ Quý – Viện trưởng Viện thông tin Khoa học xã hội. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
PV: Mỗi cá nhân thông thường đều có những nét riêng về phẩm chất, tính cách. Tuy vậy, trong phạm vi một cộng đồng thì sự khác biệt của các cá nhân đó lại không làm mất đi những phẩm chất và những tính cách chung, mà người ta thường gọi là mẫu số chung về tính cách cộng đồng. Chúng tôi quan niệm đó là bảng giá trị nhân cách của cộng đồng. Nếu chấp nhận cách hiểu này thì, theo Giáo sư, trong bảng giá trị đó, cộng đồng người Việt Nam chúng ta có những phẩm chất nào được coi là tiêu biểu nhất, và những cái gì tạm gọi như là những thói xấu cố hữu chưa gột bỏ được?
GS.HSQ: Nét tích cực tiêu biểu và những thói xấu cố hữu trong tính cách người Việt là chuyện được bàn nhiều ở vài năm trước, lúc tâm thế xã hội còn tràn đầy không khí lạc quan, cái không khí khiến nhiều người tin hơn ở những đức tính tốt đẹp của người Việt, coi đó có thể là nguyên nhân lớn tạo nên sự phát triển. Một phần nữa, lúc đó cuốn sách Người Trung Quốc xâu xí của Bá Dương, tác giả người Đài Loan, mới được biết đến nên cũng gây ảnh hưởng, tạo cảm hứng mới mẻ cho sự bàn cãi. Mấy năm nay, đời sống kinh tế xã hội tuy vẫn phát triển nhưng đã nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, có những điểm tắc nghẽn rất khó khai thông nên việc bàn đến tính cách người Việt có phần nhạt đi. Hiện thời, có lẽ anh Vương Trí Nhàn là một trong số ít những người còn mặn mà với chủ đề này.
Sự thực, đây là vấn đề rất căn bản, nằm ở tầng rất sâu trong văn hóa. Nó sẽ đeo bám sự phát triển trong mọi bước ở tương lai. Nghĩa là điều hay, nếu đạt tới, nó cũng có công, và cái dở, nếu mắc phải, nó cũng là một trong những kẻ tội đồ.
Trong một số bài báo và trả lời phỏng vấn, tôi cũng đã vài lần khẳng định cái hay, cái dở ở người Việt. Nay, lùi xa hơn một chút để suy ngẫm, tôi thấy, vẫn đủ cơ sở để một lần nữa khẳng định, thông minh, năng động, học giỏi và ít nhiều chịu khó là phẩm chất khó phủ nhận của người Việt, trong so sánh với bất kỳ cộng động tương đương nào. Và, thiếu triệt để trong tư duy và hành động, thiếu đại lượng khi nhìn nhận cá nhân, khi đánh giá người bên cạnh mình, và thiếu một bảng giá trị không lệch lạc để điều chỉnh hành vi là những điểm dở nhất trong tính cách người Việt, kể cả người Việt sống ở nước ngoài.
P.V Giáo sư có thể nói kỹ hơn…
GS. HSQ: Trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên các trang tin Online, lâu nay nhiều ý kiến đã tỏ ý hoài nghi các phẩm chất thông minh, năng động, học giỏi và chịu khó của người Việt. Các bằng cớ đưa ra cũng không dễ cãi. Cũng đã có những nghiên cứu định lượng công phu với ý định nhằm khẳng định một lần cho dứt điểm về vấn đề này. Nhưng sự thật không đơn giản thế, ấy là chưa nói đến việc nghiên cứu định lượng ở ta cũng chưa đạt tới trình độ thật tin cậy. Thành thử mọi ý kiến, kể cả ý kiến của tôi hôm nay, cũng chỉ là những cảm nhận, những suy tư, khái quát có phần cảm tính.
Nhưng thật khó phủ nhận, tại sao từ thời (Theo chúng tôi, có lẽ giáo sư muốn nói về thời các vị học giả này đưa ra những nhận xét về các phẩm chất của người Việt cả mặt hay lẫn dở – tức đầu thế kỷ 20 – PT chú) cụ Đào Duy Anh, cụ Nguyễn Văn Huyên, cụ Phạm Quỳnh đến tận ngày nay, lúc nào cũng có những tiếng nói và quan trọng hơn, những hiện tượng, những chứng cứ chứng minh cho những phẩm chất đẹp này ở người Việt. Xin không nhắc lại những hiện tượng đáng tự hào của nhiều cá nhân và cộng đồng người Việt ở Đức, ở Pháp, ở Mỹ … và trong các kỳ thi tranh tài quốc tế, dù không ít cuộc thi chỉ là những thi cử ở tầm học trò. Người Việt trong cạnh tranh, giao tiếp với các cộng đồng bên ngoài, thường bộc lộ khá rõ tư chất thông minh, dù đôi lúc thông minh có phần “láu cá”. Tính năng động, độ nhạy bén, khả năng thích nghi với hoàn cảnh, cũng là phẩm chất khá trội, dù không ít trường hợp vẫn chưa vượt quá trình độ “ở bầu thì tròn ở ống thì dài”. Còn tinh thần hiếu học, thì xưa nay luôn là giá trị dễ thấy nhất, dù mục đích của việc học thường vẫn bị chê trách là học “để làm quan”, học để có bằng cấp, và nhiều lắm là học để làm việc, chứ rất ít người học với tinh thần “yêu thích tìm ra sự thật hơn là làm vua Ba Tư”. Và, tính cần cù, sự chịu khó trong kiếm sống nữa. Ngày nay, người cần cù có thể ít hơn, nhưng cũng chưa hề quá lời khi không ít người vẫn bị chê là “cần cù đến cù lần”.
Tôi nghĩ rằng, nếu cộng đồng, các tổ chức xã hội, bộ máy giáo dục và các quan chức có trách nhiệm, có cái nhìn “đãi cát tìm vàng”, chứ không phải “bới lông tìm vết”, với những hiện tượng này, ít ra phải được như cụ Tạ Quang Bửu ngày trước, thì tình hình sẽ khả dĩ hơn rất nhiều. Không đánh giá thích đáng những hiện tượng này, có thể sẽ là một sự lãng phí ngớ ngẩn. Ý tôi muốn nói là, nếu không đủ đại lượng để có cái nhìn ưu ái với những hiện tượng này, để nâng đỡ, khuyến khích, sử dụng và phát huy những hiện tượng này, xã hội sẽ lãng phí một nguồn lực quý – nguồn lực trí tuệ, nguồn lực con người.
Cũng cần nói thêm rằng, nhu cầu xã hội về một cái nhìn đại lượng và ưu ái đối với phẩm chất thông minh, năng động, học giỏi và chịu khó khi đánh giá con người, mà tôi muốn nói đến ở đây, không phải chỉ là nhu cầu cần có một thái độ, một “lòng tốt”, hay là một “quan chức anh minh”…, mà là nhu cầu trong hoạt động, trong thực tế với các chính sách, chế độ, cơ chế… đảm bảo cho các phẩm chất đẹp có cơ hội nảy nở, thể hiện mình và phát triển. Chỉ nghĩ trong đầu mà chưa thể hiện thành hành vi, thành chính sách thì vẫn chưa thể coi là có thái độ đúng.
P.V. Thế còn cái xấu của người Việt, thưa Giáo sư?
Như vừa đề cập, trong tính cách người Việt, những điểm hạn chế đáng ngại nhất, khi đối chiếu với nhu cầu của sự phát triển đất nước ở thời điểm hiện nay, đó là thiếu triệt để trong tư duy và hành động, thiếu đại lượng khi nhìn nhận cá nhân, khi đánh giá người bên cạnh mình, và thiếu một bảng giá trị không lệch lạc để điều chỉnh hành vi.
GS. Trần Đình Hượu trước đây đã cảnh báo đại ý rằng, người Việt ai cũng biết làm một vài câu thơ, nhưng chẳng có nhà thơ nào và tác phẩm thơ nào được tôn vinh như là biểu tượng của cả nền văn hóa. Ngay cả Nguyễn Du cũng chưa được như Tagore trong văn hóa Ấn Độ, hay Đỗ Phủ, Lý Bạch trong văn hóa Trung Hoa. Cả dân tộc đánh giặc ngoại xâm gần như liên tục trong nhiều thời đại, nhưng chẳng có tướng sĩ nào được tôn vinh thành tượng đài thiêng liêng của ý chí dân tộc; hình tượng Trần Hưng Đạo được biết đến trong tâm thức dân gian, trên thực tế, là tượng đài của một Đức Thánh Trần, chứ không phải là tượng đài của một nhà quân sự tài ba. Chiến sỹ – nông dân áo vải cờ đào thì mới chỉ là đám đông anh hùng, không hề có một gương mặt cụ thể với những nét tính cách cụ thể. Nếu Chiến tranh thế giới II để lại ở Nga một số con phố mang tên những chiến sỹ binh nhất binh nhì, thì Chiến tranh chống Mỹ ở ta, đến nay, ngay các vị tướng cũng chưa được nhắc tới. Và, điều đáng ngại là ở chỗ, chúng ta thấy thế là bình thường.
Triệt để trong tư duy và hành động thường có nguy cơ, và đôi khi buộc phải, rơi vào cực đoan. Nhưng ở ta, mẫu người cực đoan, trong lĩnh vực nào cũng thế, lại rất ít nhận được sự thiện cảm của cộng đồng, nếu không muốn nói là thường bị ghẻ lạnh. Trong khi đó, ở phương Tây, người cực đoan có “đám đông” của họ, và rất nhiều phát minh, sáng tạo, sáng chế, tác phẩm… đã ra đời từ những ý tưởng cực đoan ở những con người cực đoan. Cực đoan, trong không ít trường hợp là đi đến tận cùng lý lẽ của vấn đề, là tư duy “vét cạn” toàn bộ sự việc, buộc sự việc phải lộ ra bản chất của nó. Cực đoan, mặt tốt của nó là triệt để. Đây là cái mà người Việt rất thiếu. Ngày nay, nhìn vào các hiện tượng văn hóa – xã hội, dù đã qua nhiều năm hội nhập và GDP đã vượt qua ngưỡng 1000 USD đầu người năm, nhưng đâu đâu ta cũng thấy những hiện tượng cải tiến, chắp vá, “có mặt nọ có mặt kia”…; rất ít có những hiện tượng là sản phẩm của tư duy triệt để, nhất quán, làm một lần là xong và không phải làm lại.
PV. Có phải Giáo sư cho rằng triệt để thì phải cực đoan?
GS.HSQ: Mọi sự triệt để đều có màu sắc cực đoan. Nhưng rất nhiều hiện tượng cực đoan lại chẳng mang thái độ triệt để hay tư duy triệt để nào cả. Đây là điều không dễ phân biệt nên trước cộng đồng, những người có tư duy triệt để thường phải chịu thiệt thòi. Trong cộng đồng người Việt, không nhiều người đủ đại lượng để nhận ra trong số những người cực đoan thì ai là người có tư duy triệt để, có cái nhìn xuyên thấu logic của sự việc. Vậy nên, các liệu pháp sốc, các phương án toàn diện – tổng thể, các giải pháp chấp nhận hy sinh… thường rất khó được tán đồng; chưa kể, những khó khăn khách quan cho những giải pháp kiểu này lại luôn rất lớn.
Thực tế đời sống ở Việt Nam cho thấy, những khó khăn khách quan luôn có xu hướng khuất phục được rất nhiều người có tư duy triệt để, khiến mọi ý đồ triệt để nhất rồi cũng phải thỏa hiệp hoặc chùn bước. Nhiều sự khởi đầu đầy hăng hái nhưng do thiếu một sự cực đoan cần thiết, nên rồi, kết quả vẫn không như mong đợi. Những ý tưởng to lớn không hiếm khi vẫn chỉ cho ra những kết quả bé tý, thường là do thiếu một phương thức thực hiện hợp lý với những cách làm và cách nghĩ triệt để. Nền văn hóa ở ta không khuyến khích những người dám chết để làm điều mình cho là có ích. Cộng đồng luôn nhân danh những giá trị của tiền nhân về dại và khôn, lợi và hại, cho và nhận, tâm và tài… để răn dạy các cá nhân không nên quá mạo hiểm với đời sống của mình. Điều này cũng có ý nghĩa tích cực của nó. Nhưng về một phương diện khác thì nó cản bước sự sáng tạo, làm thui chột ý chí vươn tới đỉnh cao và kéo dài sự sống của những cái lạc hậu. Điều này rất khác với văn hóa duy lý châu Âu.
Cách đây ít lâu, đứng trước những vấn nạn của nền giáo dục nước nhà, GS. Hồ Ngọc Đại nhận xét: “Tình trạng loạn trường đại học, loạn giáo sư, loạn tiến sỹ… là thực trạng buồn của giáo dục Việt Nam. Thế nhưng, cái cần “nổi loạn” nhất là sự nổi loạn của tư duy thì ta lại trì trệ, lại không dám, chỉ biết cam chịu”[1]. Tôi chú ý đến sự nhắc nhở của ông về tính triệt để trong tư duy và hành động. Với nền giáo dục đã có vài thập niên cải cách mà càng làm càng rối, thì tư duy chắp vá, thiếu triệt để, kém đồng bộ, chỉ “cải cách phần ngọn”… là thứ cần phải tính đến. Nghĩa là, cần có các giải pháp toàn diện – đồng bộ với tư duy triệt để. Nói như GS. Hoàng Tụy, sự trục trặc ở đây đã thuộc về lỗi hệ thống. Hệ thống vận hành của giáo dục đã không còn đủ sức tự sửa những lỗi của nó nữa. “Sai lầm hệ thống lớn nhất trong lĩnh vực giáo dục là đã đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, kìm hãm thế hệ trẻ trong nền cử nghiệp hư học”[2].
Dĩ nhiên, cắt nghĩa sự yếu kém của giáo dục mà chỉ tìm nguyên nhân ở nếp tư duy, ở phẩm cách con người hay ở văn hóa thì rất không đầy đủ và do đó, rất dễ lệch lạc. Bởi đó là những nguyên nhân xa. Còn những nguyên nhân gần, nguyên nhân trực tiếp hơn của tình trạng yếu kém của giáo dục hiện đang thuộc về lợi ích, thuộc về bộ máy quản lý giáo dục, và cơ chế vận hành bộ máy quản lý ấy.
(Còn tiếp)