Pham Ton’s Blog

Tháng Tư 24, 2023

Có hay không vụ “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm” – Dã Thảo

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 3:00 chiều

Blog  PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 1 tháng 5 năm 2023.

Có hay không vụ

“PHẠM QUỲNH HẤT CẲNG NGÔ ĐÌNH DIỆM”

Dã Thảo

Lời dẫn của Phạm Tôn: Vụ Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm xảy ra từ 1932, xưa lắm rồi. Sau khi ra đời được ít lâu (22/2/2009), ngày 22/12/2009 Blog PhamTon chúng tôi đã có bài của Dã Thảo nói rõ chuyện này. Rằng Ngô Đình Diệm làm Thượng thư Bộ Lại có ba tháng rồi từ quan. Chức ấy được chuyển giao cho  Thái Văn Toản. Đến khi Thái Văn Toản về hưu năm 1942, Phạm Quỳnh mới từ Bộ Quốc Dân Giáo Dục chuyển qua Bộ Lại.

Mà từ Hất cẳng có nghĩa là: Tìm cách bẩy kẻ nào đi để chiếm lấy chỗ cho mình, (trang 819 sách Từ và Ngữ,  NXB Tổng hợp TPHCM, 2015 của Giáo sư  Nguyễn Lân).

Sao lại có chuyện hất cẳng…kéo dài đến…mười năm!

Những tưởng mọi chuyện đã sáng rõ và kết thúc. Nhưng đến ngày 26/3/2023, lần đầu vào Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh mua được một tập sách 220 trang, trình bày trang nhã: Phan Ngọc-Sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam với Pháp do Omega Plus và Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản năm 2008. Bản thảo tác giả viết xong ngày 11/11/2005. Rõ ràng là sách mới viết và cũng mới xuất bản.

Nhưng đến trang 93 vẫn thấy có một nhận định rất cũ, chắc chắn không phải do Phan Ngọc nghĩ ra, mà chỉ nói theo những người trên đi trước cho bản thân được an toàn: Chính Phạm Quỳnh đã hất cẳng Ngô Đình Diệm khỏi Bộ Lại vào cái dịp ngọn gió Nam Phong  làm đổ cả 5 ông Thượng Thư ở Huế (1932).

Vì thế, chúng tôi thấy cần đăng lại bài sau đây đã đưa lên Blog PhamTon từ 2009

—o0o—

Hơn sáu mươi năm qua (Bài viết năm 2009-PT chú), ta thường nghe câu nói nôm na dễ nhớ là “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm” và cũng cảm thấy có lý, dễ tin! Vì sự thật lịch sử đầu thế kỷ XX là sau khi Ngô Đình Diệm từ chức một thời gian… thì Phạm Quỳnh lên làm Thượng thư Bộ Lại. Ngay Từ điển danh nhân Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh chủ biên, do NXB Văn hóa-Thông tin tái bản và có sửa chữa xuất bản năm 2009 cũng còn viết: “(Phạm Quỳnh-DT chú) Từ 1933, làm thượng thư bộ Quốc gia Giáo dục, chuyển sang Thượng thư Bộ Lại thay cho Ngô Đình Diệm.” (trích mục từ Phạm Quỳnh, trang 377 sách đã dẫn).

Nhưng sự thật không đơn giản như thế.

Năm 1932, hoàng đế Bảo Đại “hồi loan” chính thức “trị vì” đất nước và đã có cải cách quan trọng, thay thế các thượng thư già nua bằng một lớp thượng thư trẻ tuổi, gây nên vụ “Năm cụ khi không rớt cái ình” nổi tiếng trong lịch sử nước ta đầu thế kỷ XX. Vị thượng thư lão thành đầu triều Nguyễn Hữu Bài, từng làm Thượng thư Bộ Lại 16 năm liền, chỉ chấp thuận từ chức với điều kiện chức vị của ông phải được kế tục bằng chính người do ông tiến cử, cũng là con nhà đạo gốc Thiên Chúa giáo như ông. Người đó là Ngô Đình Diệm. Bảo Đại tán thành ngay và còn cho Ngô Đình Diệm kiêm giữ chức Tổng thư ký Ủy ban Cải cách. Nhưng, với vai trò Tổng thư ký này, Ngô Đình Diệm đã đưa ra một số cải cách không được Pháp tán thành. Ngô Đình Diệm không dám phản đối Pháp, chỉ đổ tội cho Phạm Quỳnh với câu nói là “Phạm Quỳnh không hợp tác” cho nên không làm việc được và xin từ chức, thành vị Thượng thư Bộ Lại giữ chức vụ trong thời gian ngắn nhất, chỉ có ba tháng (từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1933). Sau đó, Thái Văn Toản thay thế, giữ chức này cho đến khi về hưu năm 1942. Lúc ấy, Phạm Quỳnh mới lên làm Thượng thư Bộ Lại.

Như vậy là hoàn toàn không có chuyện “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm” như lâu nay ta vẫn thường nghe, đọc. Cũng không phải là Phạm Quỳnh “chuyển sang Thượng thư Bộ Lại thay thế Ngô Đình Diệm”. Vì người thay thế ông “thượng thư ba tháng” Ngô Đình Diệm là Thái Văn Toản chứ không phải Phạm Quỳnh: Ngô Đình Diệm từ chức năm 1933 mà mãi chín năm sau, 1942, Phạm Quỳnh mới lên làm Thượng thư Bộ Lại thay thế Thái Văn Toản về hưu.

Nhưng, thực chất việc Ngô Đình Diệm từ chức là vì sao, có liên quan gì đến Phạm Quỳnh, một Tổng lý đại thần Ngự tiền văn phòng và Thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục? Điều bí mật này đã được Daniel Grandclément giải rõ trong tác phẩm Bao Dai ou les derniers jours de l’empire d’Annam (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của đế quốc An Nam – PT chú) (NXB JC Lattés, trang 43). Đại ý ông viết như sau: “Điều đã làm cho ông Diệm nổi cơn thịnh nộ lên và sinh lòng bất mãn, chỉ vì ông Eugène Châtel, vừa nhậm chức khâm sứ Trung Kỳ, đã cùng với Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng, muốn bãi bỏ quyền xử án của các hàng quan lại địa phương (Tức là thực thi Tam quyền phân lập, tách tư pháp khỏi hành pháp– DT chú). Đó là một đòn ác nghiệt đánh bể “hũ  gạo ngon” của giới quan lại Nam triều, về tệ trạng nhũng lạm đã trở thành thâm căn cố đế trong guồng máy cai trị kiêm quyền xử án rồi…

“Trong khi đó ông Diệm lại đóng vai bảo vệ cho quyền lợi của giới quan lại ấy, nên ông đã đơn phương vùng vẫy ngay trong nội bộ, chống lại chủ trương cải tiến mà ông cho rằng không hợp thời đó. Ông Diệm không biết rằng biện pháp cải tiến này đã được Toàn quyền Pasquier chấp thuận. Còn vua Bảo Đại thì dĩ nhiên lúc nào cũng chịu ảnh hưởng của Pháp và luôn luôn ủng hộ Pasquier, Châtel và Phạm Quỳnh. (…) Ngoài ra, ông Diệm lại còn hành động sai lầm: tự ý cung cấp các bản tường trình của các phiên họp nội bộ cho báo chí. Lúc bấy giờ, Louis Marty đang giữ chức Giám đốc An ninh và công tác Chính trị đã ngăn chặn được một bản tường trình của ông Diệm gửi cho báo chí, và chắc chắn Louis Marty đã báo cáo chuyện này lên cho toàn quyền Pasquier biết. Căn cứ trên luật lệ hành chánh lúc bấy giờ, ông Diệm đã vi phạm một sai lầm vô cùng trầm trọng. Như thế, chẳng khác gì ông Diệm đã công khai tuyên chiến với Toàn quyền Pasquier. Vì vậy, tờ Tribune (Diễn Đàn – DT chú) số ra ngày 21/7/1933 đã viết về vụ chống đối này là một “cuộc chiến quá chênh lệch”, mà ông Diệm không thể nào tránh khỏi sự thất bại trước mắt.” (Trích dẫn theo Đặng Văn Nhâm: Tìm hiểu cái chết oan khiên bi thảm của một danh tài lỗi lạc (Viết tại Đan Mạch, 3/7/1999).

Với thời gian, và những trí tuệ minh mẫn, lương tâm trong sáng của những người trung thực, lớp bụi mù bao phủ trên cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã mỗi ngày một bị xua tan, làm nổi rõ lên khuôn mặt thật trong sáng rực rỡ của ông.

Chúng tôi mong góp phần nhỏ vào việc làm Tổng Vệ Sinh đó và càng mong được sự giúp sức của quí bạn xa gần yêu kính, ngưỡng mộ nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa Phạm Quỳnh của chúng ta. Mục Tìm hiểu Phạm Quỳnh mong nhận được tin, bài, tư liệu về Phạm Quỳnh để làm sáng rõ hơn nhân vật từng bị chôn vùi hơn 60 năm qua nhưng vẫn sống mãi trong lòng những người dân Việt yêu nước và sáng suốt với lương tâm trong sáng, một lòng yêu nước, thương dân như ông.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/12/2009.

D.T.

Advertisement

Tháng Hai 9, 2023

“Viết di chúc”

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:54 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 2 tháng 2 năm 2023.

“VIẾT DI CHÚC” 

Phạm Tôn

Năm 2009 đối với tôi có nhiều kỷ niệm. Mà một vài là chuyện vui, thậm chí…buồn cười.

Sáng 22/2/2009, từ sớm, tôi lên phòng con trai để tưới cây, đi rón rén cốt không làm con thức giấc. Thì bỗng con đứng ngay sau lưng tôi từ bao giờ, nói lời chúc mừng sinh nhật bố một việc khác hẳn mọi năm và đưa ra cho tôi một cái thiếp bé xíu, bên trái là hình Ông Ngoại tôi hồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam Phong, và bên phải là mấy dòng chữ tự tay con viết: “Mong Bố khỏe và sớm giải oan cho Cụ. Biếu bố Blog Phạm Quỳnh. Đây sẽ là kênh thông tin chính thức của Phạm Tôn : https://phamquynh.wordpress.com

Thiep blog phamton tang bo

Thế là từ ngày hôm đó, ngày nào chúng tôi cũng phát các tư liệu đã tích lũy từ mấy chục năm qua. Chủ yếu là do hồi ấy có khá nhiều blog cá nhân ra đời rồi bị đóng cửa ngay. Sau thấy mọi sự đều yên ổn, lại được nhiều bạn đọc giao lưu động viên, chúng tôi bình tĩnh lại, quyết định ra hằng tuần như một tạp chí để bạn đọc dễ theo dõi. Thật là vui.

Cũng năm 2009 ấy, anh tôi kết hôn lần thứ hai, sau khi bà chị dâu mà tôi yêu quí như chị ruột qua đời mấy năm. Cả gia đình tôi về Bạc Liêu, dự đám cưới anh. Đi về đều bằng xe hơi. Gia đình tôi đi cùng một cháu rể. Xong việc là về ngay. Khi về đến xa cảng Miền Tây, cháu rể phải đỡ tôi xuống và nói với vợ, con tôi là xem ra chú kiệt sức rồi. Tôi về nhà và nằm thẳng cẳng, chỉ muốn ăn cháo thôi. Nhưng hôm sau lại đi làm.

Gặp nhau sau mấy ngày tôi nghỉ việc riêng, anh phụ trách nhóm người Nhật hỏi tôi có khỏe không. Tôi nói hơi mệt nhưng làm việc được, chiều sẽ đi khám bệnh. Anh hỏi có đau ở đâu không. Tôi chỉ vùng phải bụng, chỗ thắt lưng. Anh hỏi lại rồi nói anh bạn trẻ cùng làm đưa ngay tôi đi bệnh viện, vì có thể là viêm ruột thừa, phải mổ ngay. Chúng tôi đến bệnh viện quận I, khám, siêu âm hai lần, bốn bác sĩ cùng siêu âm kết quả ghi rất hay, không sai vào đâu được: Xin theo dõi viêm ruột thừa. Và tôi được chuyển lên tuyến trên. Lần này con trai tôi đã thay anh bạn trẻ đưa tôi lên Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, vào phòng cấp cứu to, nằm trên một sàn lớn có 19 người nằm sẵn, trên tường sát đầu nằm là một dòng chữ đỏ, to “Khu vực không ăn uống. Đến 12 giờ trưa, con tôi ra nói với bác sĩ là bố tôi bị tiểu đường, nhịn ăn lâu quá, sẽ hạ đường huyết nguy hiểm. Tôi được đặc cách ăn một miếng xan-uých uống nửa chai nước trắng trước con mắt thèm thuồng của 19 người còn lại.

Nhưng rồi, cứ sau khi các bác sĩ chụm đầu lại bàn bạc thì lại có sáu người đưa đi mổ. Đến 22 giờ đêm thì chỉ còn hai người là tôi và một anh người Đắc Lắc, nằm chờ mổ mà luôn có điện thoại gọi, lại phải chỉ đạo bán mấy tấn cà phê ở chỗ nào trong kho nào. Lúc lại được một cô gái trẻ chăm sóc lau mặt, lau tay cho đỡ mồ hôi. Xem cách cư xử, thì đây không phải là con gái. Đến 22:30 thì bác sĩ đến bảo anh cứ về nhà, muốn ăn gì thì ăn, cần giải quyết việc gì thì giải quyết ngay và khi nào đau thì đến ngay chúng tôi, một hai giờ đêm cũng được, chúng tôi mổ ngay. Anh bị xơ gan giai đoạn cuối, mổ cũng là năm ăn năm thua. Anh ta và cô gái trẻ thu xếp ra về, còn chào cả tôi nữa. 23:00 một y tá đến bảo con tôi đưa bố đến ngay phòng siêu âm cắt lớp, đến ngay kẻo bác sĩ họ chửi cho đấy. Con tôi bực lắm. Nhưng đến nơi mới thấy là cô ý tá nói đúng. Cả phòng siêu âm chỉ chờ có mình tôi. Chụp luôn hai đợt, có đến mấy chục hình.

Về lại chỗ cũ, thì một lát sau các bác sĩ trực đêm ấy lại đến bên tôi. Một vị có tuổi nói nhẹ nhàng, nhưng trong đêm tĩnh mịch tôi nghe rõ từng lời ông nói: “Tôi làm ở đây lâu rồi, tôi chưa thấy có khối u nào ở đại tràng xich-ma như thế này mà lại là lành tính cả…” Rôi tôi được lệnh lên trại, chưa mổ vội.  Con trai tôi nắm lấy vai tôi bóp khẽ và nói nhỏ “Không sau đâu bố ạ.” Tội nghiệp thằng bé bị tôi nói nhỏ nhưng rõ một câu “Con phải hiểu bố con không phải là người cần được an ủi, vỗ về. Nhớ lấy”. Con tôi đẩy bằng ca, che thân tôi bằng một tấm vải trắng. Cô bạn gái cùng lớp, cùng tuổi heo vàng đi bên cạnh xách quần áo, túi đeo của tôi.

Tôi còn dặn con tôi là blog của mình mới ra đời hơn nửa năm, phải giữ cho đều, không để bạn đọc mong, sợ là blog chết rồi. Vì thế, hằng ngày con mang tài liệu vào, bố nghiên cứu rồi viết nháp trong đầu, con đến, bố đọc cho con đánh thành bài, đứa đến bố chữa. Mẹ sẽ thay con những lúc con về nhà. Và thế là Blog PhamTon chúng tôi lại làm việc đều đặn. Chỉ có điều tôi bị đến năm cái giây truyền dịch và thoát dịch thải cho nên đọc khá khó. Vì vướng víu, có khi lại bị trái sáng. Vì vẫn theo y lệnh không được ăn uống như từ lúc đầu vào viện này.

Câu chuyện gọi là buồn cười xảy ra như thế này.

Có lần, vợ tôi bảo là trong phòng có mấy ông già đến trông con bị ung thư thắc mắc về hai bố con tôi lắm. Theo dõi mấy hôm liền, không chịu nổi đành hỏi vợ tôi là ông ấy gia đình có gì rắc rối lắm hay sao mà chúng tôi thấy ngày nào ông cũng đọc cho thằng nhỏ viết di chúc rồi bắt sửa đi đọc lại nhiều lần. Vợ tôi ngạc nhiên bảo chắc bố con nó chơi trò gì đó thôi chứ chúng tôi chỉ có một con, chết đi chẳng để cả cho nó thì cho ai. Vả lại vợ chồng đều là cán bộ nhà nước, chỉ có cái căn hộ nhỏ được mua năm nào chứ có của chìm của nổi gì đâu mà phải lo viết di chúc.

Rồi tôi được hẹn lịch mổ. Khi chia tay để vào phòng mổ, con tôi còn nói bố cứ yên tâm, con lo mọi việc đúng như bố dặn.

Bệnh viện khám trước mổ rất kỹ càng, làm nhiều xét nghiệm. Và kết quả là ra y lệnh: khi mổ không được dùng thuốc mê vì nếu dùng thuốc mê thì bệnh nhân lên cõi trên rồi khỏi mổ. Vì tôi bị dị ứng với nhiều loại thuốc mê hiện dùng, mà phải thay bằng thuốc tê truyền liên tục. Nhưng như vậy bệnh nhân sẽ tỉnh, khó mổ vì vẫy vùng mất nhiều máu, gia đình phải lo bốn đơn vị máu sẵn sàng. Con tôi rủ thêm ba bạn chí cốt hiến máu. Đủ máu rồi, còn một việc là bệnh nhân vốn lao phổi đã thành sẹo, phổi thở rất kém, mổ xong phải cho thở máy ngay. Đó là việc của các thầy thuốc. Còn bố con tôi chỉ lo làm blog cho ra đúng kỳ thôi.

Nằm chờ ở cửa phòng mổ, tôi nhẩm duyệt lại bài định viết trong đầu, chờ mổ xong sẽ đọc cho con đánh vi tính. Ca mổ hơi dài, từ 10:30 đén 16:30, tôi được đưa về phòng hồi sức và nghe rõ bác sĩ trực nói là mời các vị thân nhân bệnh nhân về nhà cho, hôm nay không ai ra được đâu. Vợ chồng chị vợ tôi và ông bà thông gia tương lai ra về.

Phòng hồi sức rộng mênh mông mà đầy chặt những băng ca. Quá tải. Bác sĩ lại rà soát xem tình hình bệnh nhân sau mổ thế nào, ai tỉnh rồi thì cho ra, ai còn mê man thì ở lại. Tôi có mê đâu mà tỉnh.  Thế là được vào danh sách về trại. Hai mẹ con thương bố cho nên đã thuê sẵn một phòng dịch vụ, có máy lạnh, lại chỉ có bốn người. Cô y tá nói bác sĩ vừa bảo người nhà bệnh nhân về hết bây giờ lại bảo cho về thì lấy đâu ra người. Đã hơn 22:30 rồi. Bà y tá già nói cứ ra cửa gọi đi, đuổi thì đuổi chứ không ai người ta bỏ người nhà mới mổ đâu. Và quả nhiên nghe gọi đến tên tôi thì con trai và con dâu tương lai đã chờ sẵn đưa tôi về phòng dịch vụ sang trọng. Tôi không phải tiếp máu trong khi mổ, cũng chẳng phải thở máy khi mổ xong. Bây giờ, chỉ còn duyệt lại bài con đã đánh thôi. Đó là bài mà các bạn sẽ đọc sau đây, có ghi rõ ngày tháng và nơi viết.

Sài Gòn 10/9/2018.

P.T.

Tháng Một 30, 2023

Chúng tôi đã sống như thế: Bước khởi đầu của nhạc sĩ Phạm Tuyên

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:40 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 1 tháng 2 năm 2023.

Chúng tôi đã sống như thế:

BƯỚC KHỞI ĐẦU CỦA NHẠC SĨ PHẠM TUYÊN

(Trích sách Chúng tôi đã sống như thế từ trang 46 đến trang 54)

Nguyễn Ánh Tuyết.

Lời dẫn của Phạm Tôn: Mở đầu năm 2014, chúng tôi vui mừng giới thiệu với bạn đọc trung thành và yêu quí tác phẩm Chúng tôi đã sống như thế của PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết, con dâu học giả Phạm Quỳnh, người bạn đời của nhạc sĩ Phạm Tuyên, do Nhà xuất bản Tri Thức xuất bản cuối năm 2013, năm Phạm Quỳnh tròn 120 tuổi.

Cuốn sách khổ 13×20, 5cm này dầy 420 trang. Đặc biệt sách này không bán.

Ba Tuyet sach chung toi da song nhu the*

*     *

Chúng tôi mời quí bạn đọc bài của PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết, người vợ hiền, người bạn đời của nhạc sĩ, viết về Bước khởi đầu của nhạc sĩ Phạm Tuyên, để hiểuPham Tuyen_Nguyen Anh Tuyet rõ vì sao nhạc sĩ đã chọn, và kiên trì đi theo con đường mình đã chọn nửa thế kỷ nay.

Phó giáo sư tiến sĩ tâm lý học Nguyễn Anh Tuyết sinh năm 1936 tại Đồng Hới, Quảng Bình, trong một gia đình cách mạng. Cha thoát ly gia đình đi hoạt động, ít khi có nhà. Sau đó, mẹ cũng giác ngộ cách mạng và thoát ly luôn. Bé Nguyễn Anh Tuyết được gửi về quê sống với bà ngoại và dì. Sau đó mẹ gửi vào ăn học ở trại Thiếu Sinh Quân Quảng Trị đóng trên đất Hà Tĩnh, rồi sang học trường Phan Đình Phùng. Học dở dang thì có người đến đón lên Nghệ An để “sang Trung Quốc học theo tiêu chuẩn con em cách mạng”.

Từ đó, Nguyễn Anh Tuyết sống và học tập ở Khu học xá Trung ương Nam Ninh (Trung Quốc), gặp, yêu thương rồi sau này thành vợ nhạc sĩ Phạm Tuyên từ năm 1957. Nay ông bà đã có hai con gái, hai con rể, ba cháu ngoại, quá tuổi tổ chức Đám Cưới Vàng rồi mà vẫn sống hạnh phúc bên nhau: người này là điểm tựa cho người kia vươn lên trong sự nghiệp và cuộc sống vốn không ít sóng gió

Năm 2007 bà bắt đầu viết tại Hà Nội và năm 2008 thì hoàn thành bản thảo hồi ký chẵn 200 trang giấy A4 Chúng tôi đã sống như thế

Bà mất tại Hà Nội ngày 11 tháng 5 năm 2009 (tức ngày 17 tháng 4 Kỷ Sửu).

Chúng tôi trích đăng dưới đây một phần trong hồi ký của bà viết về ông “người bà yêu suốt đời mà cũng là người suốt đời yêu bà. Nhan đề bài viết là của chúng tôi.

—o00—

S

au khi có được tấm bằng tú tài, năm 1948 Phạm Tuyên liền ghi tên vào học tại trường Đại học Pháp lý do luật sư Đỗ Xuân Sảng làm hiệu trưởng, với nguyện vọng là được trang bị lý luận về pháp luật để sau này nếu có điều kiện, khi bản án Phạm Quỳnh được đưa ra phán xử (như Hồ Chủ tịch đã nói với hai người chị của anh trong lúc gia biến năm 1945: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sau này lịch sử sẽ đánh giá lại”) thì mình còn có đủ lý lẽ để lấy lại công lý cho cha mình. Nhiều tri thức mới về luật pháp lại được các giảng viên truyền đạt hay, Phạm Tuyên bị thu hút vào những bộ luật và điều đầu tiên được khắc họa và khẳng định là “Quyền tư hữu là quyền bất khả xâm phạm của con người” (lúc đó được coi là chuyện bình thường). Nhiều lý luận chính trị, kinh tế… đang làm thỏa mãn tính ham học, ham hiểu biết vốn đã có từ hồi còn thơ ấu của anh. Tài liệu trong sách báo, chủ yếu là bằng tiếng Pháp và qua những cuộc nói chuyện của các cán bộ chính trị cao cấp và các vị trí thức đi tham gia kháng chiến để bổ sung cho những gì học được trong trường. Bạn học ở trường Đại học Pháp lý lúc đó là những thanh niên trí thức tản cư lên chiến khu như: Trần Văn Tý, Lê Đạt, Đặng Hồng Miên, Lê Hồng Chi, Nguyễn Vịnh, Đặng Đình Hưng, Trương Đắc Vị...

Đang háo hức thâu nạp tri thức thì giặc Pháp đổ bộ lên Việt Bắc, trường phải giải thể. Thế là “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu!”, Phạm Tuyên cùng với một số sinh viên được cử đi học tại trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn, khóa 5- khóa chuẩn bị tổng phản công. Anh bắt đầu đời binh nghiệp. Cuộc sống gian khổ của bộ đội ta đầu kháng chiến chống Pháp cộng với một chế độ luyện tập quân sự hà khắc bởi người huấn luyện là một sĩ quan Nhật là hàng binh được nhà trường sử dụng, không làm cho anh bộ đội “thư sinh” này nao núng. Những bài tập đi, chạy, lăn lê bò toài không phải theo kiểu của bộ đội ta mà theo kiểu quân phiệt Nhật. Nhiều lần ông ta bắt học viên lăn từ trên đồi xuống rồi lại bò lên. Quần áo rách nát, da dẻ xoạc sờn, thế mà các anh lính trẻ trọc đầu vẫn ráng sức chịu đựng. Câu hát “Thuở thanh bình anh là thư sinh, Thời chinh chiến anh là chiến binh” mà đồng đội đã hát tặng anh lúc đó thật là phù hợp. Cuộc sống hết sức gian khổ nhưng các anh vẫn lạc quan và càng gắng công tập tành. Không khí hăng say luyện tập, sinh hoạt tập thể sôi nổi đã làm Phạm Tuyên quên đi những chuyện đau buồn riêng mà bắt đầu cảm thấy yêu đời, thúc giục anh sáng tác bài hát cho đồng đội để động viên lẫn nhau. Ca khúc đầu tiên là bài Vào lục quân trong đó có đoạn: “Góc trời lửa rực cháy hoang tàn. Căm hờn giặc Pháp uất hận chứa chan! Chàng thanh niên lòng căm uất! Dứt bao tình thương quyết lên đường! Vào lục quân tìm thấy ánh sáng! Vào lục quân tìm thấy chiến thắng! Hẹn ngày phá tan quân thù…” Sau những buổi tập tành nặng nhọc ở thao trường trở về trại, các anh lính trẻ hát vang bài Đường về trại (do Phạm Tuyên sáng tác): “Khi đoàn ta dồn bước tiến về! Kìa trông thoáng xa mái gianh thân yêu! Vui thao trường cố quên nhọc nhằn! Bước! Ta cùng nhau tiến bước!…”. Càng tích cực luyện tập càng mong cho đến ngày tổng phản công. Hướng về ngày tổng phản công, anh viết: “Đây! Khóa chuẩn bị tổng phản công! Náo nức bao chàng trai, từng đoàn tập hợp nuôi ý chí hùng! Mong chờ ngày tổng phản công! Giữa chốn rừng sâu, giữa hoa lá xanh gắng tập tành! Pham Tuyen_Si Quan Luc QuanKhông tiếc chi xương máu giành ngày toàn thắng!”. Những ca khúc đó ngày nay nhiều đồng đội của anh, có người đã đeo quân hàm tướng tá, hay cán bộ cốt cán trong các ngành của Đảng và Nhà nước, tuy đã về hưu nhưng vẫn thuộc, vẫn hát mỗi khi gặp nhau. Tốt nghiệp trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn năm 1950, ngay trong năm đó Phạm Tuyên được điều về làm đại đội trưởng trường Thiếu sinh quân Việt Nam, nơi học tập và rèn luyện của các em “thiếu nhi mặc áo lính”, do cấp trên nhận thấy anh có trình độ văn hóa và tính tình thích hợp với việc giảng dạy các em nhỏ.

Vào một buổi sáng đầu hè năm 1950, khi Phạm Tuyên vác ba lô đến nhận công tác tại trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Cao Vân, Đại Từ, Thái Nguyên, các em thiếu sinh quân ùa ra đón anh thật sôi nổi. Trường được thành lập từ năm 1949, lúc đó mới có hai đại đội, anh được giao ngay nhiệm vụ làm đại đội trưởng Đại đội Ba, là đại đội bé nhất. Học sinh của trường là các em liên lạc viên ở các đơn vị phía bắc gửi về và một số học sinh vùng tự do, các em ở độ tuổi từ 11 đến 15, đang tuổi ăn tuổi chơi.

Công việc đầu tiên là sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho các em vào những lán trại được dựng theo chiều dài, trong đó có hai hàng giường đan bằng tre nứa kéo dài theo chiều của nhà. Không có hội trường, cũng không có lớp học. Họp chung thì ra ngoài sân, còn sinh hoạt trung đội hay tiểu đội thì ngồi cả lên hai phía giường ngủ. Đời sống của các em thiếu thốn vô cùng.

Hằng ngày dạy các em học văn và học nhạc, anh cùng các “chiến sĩ tí hon” đào hầm, dựng nhà, tăng gia sản xuất để tự túc một phần lương thực, thực phẩm, đi lấy gạo… sinh hoạt cùng các em anh càng thấy gắn bó với bầy “thiếu nhi mặc áo lính” ấy...

Buổi sinh hoạt lửa trại đầu tiên quanh đống lửa nứa khô nổ lép bép anh đã được nghe các em hát. Một cảm giác yêu thương tha thiết tràn ngập lòng anh khi nhìn những gương mặt non tơ trong bộ quân phục xuềnh xoàng, đã sớm phải xa gia đình để lên học tập tận nơi núi rừng Việt Bắc xa xôi này. Trăn trở hơn là khi anh chỉ nghe các em hát những bài bộ đội người lớn và quanh đi quẩn lại cũng chỉ có vài bài. Với vốn liếng âm nhạc đã có từ khi còn ở nhà, anh thấy không thể không viết ra cho các em những bài hát mới phục vụ cho sinh hoạt tập thể của đơn vị, hy vọng làm cho cuộc sống của các em nơi núi rừng được sôi nổi, vui tươi hơn. Và anh đã bắt tay vào sáng tác bài hát cho các em

Thế là chỉ trong một thời gian ngắn anh đã viết được một chùm ca khúc cho các em như các bài Em vào thiếu sinh quân để tặng các em mới nhập trường: Em vào Thiếu sinh quân vì em hằng ước ao sống bên bao bạn hiền/ Được dìu dắt em càng quyết tâm học hành! Cho chóng nên người hữu ích sau này, bài Lớp học rừng tả lại cảnh lớp học rất đặc biệt ở đây. Vì phải tránh máy bay giặc Pháp, nhà trường đã chọn cho mỗi lớp học một khu rừng nứa um tùm, cạnh bờ một con suối để dễ sơ tán khi có máy bay oanh tạc. Bàn ghế làm toàn bằng tre nứa và được chôn chặt ở dưới lùm cây. Học các môn văn hóa nhưng không có bảng đen, chỉ nói và cho các em ghi vào vở. Điều kiện học tập thì thiếu thốn và đơn sơ như vậy mà các em đều học tập rất nghiêm chỉnh và có kết quả tốt. Trong bài hát có đoạn: “Ngồi quanh đây bên cây bóng mát! Rừng xanh lá che bốn bề/ Nứa uốn quanh che rợp/ Gốc cây ta để sách/ Cùng ngồi bàn tre ghế nứa mới/ Ta hứng thú học quyết tâm/ Đắp xây ngày mai giữa rừng!”. Bài Thiếu sinh quân ở một nơi thật vừa! nói lên tâm trạng của các em nhỏ lúc đó, chúng không những tỏ ra khoái chí và rất bằng lòng với lớp học của mình mà còn có phần thích thú hơn vì được học trong lớp học đặc biệt do chính tay mình làm ra: “Thiếu sinh quân ở một nơi thật vừa/ Kề dòng suối trong, rừng nứa um tùm/ Lúc thi đua thật là thú vô cùng/ Vì tre nứa ngay bên rừng/ Giá ba lô và lợp mái chuồng gà/ Bàn lúc học, ghế lúc ngồi/ Cuốc “tăng xê” vừa đan liếp nhà/ Tay ta tự làm ra”. Những bài Em tăng gia, Của công là của nhân dân, Bài ca nhân ái, Năm yêu, Đố cờ… đều được viết ra để phục vụ cho sinh hoạt của các em lúc đó.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, thế hệ thiếu sinh quân từng hát những ca khúc này năm xưa đã thành ông nội, ông ngoại, nhiều người trở thành văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, các nhân vật trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta như: Đặng Nhật Minh, Thúy Toàn, Phan Phúc, Chu Hảo, Lê Đức Phúc, Vũ Khoan, Vũ Mão, Vũ Mạnh Kha… Nhưng mỗi khi gặp nhau họ vẫn không quên vỗ tay hát vang nhưng bài hát ấy.

Có thể nói những bài hát đầu tiên của Phạm Tuyên dành cho đối tượng thiếu nhi được viết ra từ cái môi trường đặc biệt này. Từ đây trở đi duyên nợ của anh đối với lứa tuổi thiếu nhi cứ dần dần được bền chặt hơn, có ý thức hơn. Và anh đã trở thành Nhạc sĩ của tuổi thơ như những thế hệ thiếu nhi sau này gọi anh như thế.

Trong trường Thiếu sinh quân Việt Nam, anh là một đại đội trưởng trẻ đầy nhiệt huyết, không những giảng dạy tốt mà còn hăng hái tham gia công việc của trường. Anh cũng coi đây là một môi trường rèn luyện cho mình về tác phong sinh hoạt cũng như sức chịu đựng gian khổ, nên được đồng nghiệp nể trọng và các em yêu mến. Có thể nói một trong những công việc vất vả nhất thời ấy là đi lấy gạo trên kho về, vác nặng, đường rừng xa xôi lại phải trèo đèo lội suối. Nhiều lần vác gạo lội qua khe thì gặp nước lũ ập về. Nước khe dâng cao và chảy siết, các em thiếu sinh quân lớn thì tự bơi qua được, còn các em nhỏ, mà đại đội của anh hầu hết là các em nhỏ thì phải có người lớn giúp đỡ. Trong tình huống đó, anh phải ráng sức vừa vác gạo vừa cõng các em nhỏ vượt qua dòng nước đang chảy xiết. Và thế là việc lấy gạo thắng lợi. Với sự phấn đấu vượt bực, anh trở thành tấm gương để đồng đội và các em nhỏ học tập. Anh được đồng chí Lê Chiêu, hiệu trưởng của trường, giới thiệu kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Anh được công nhận là Đảng viên chính thức vào ngày 27 tháng 7 năm 1950, đúng ngày Thương binh Liệt sỹ, một thời điểm rất đặc biệt đối với anh. Hôm đó đang đứng trong lớp giảng bài thì máy bay giặc Pháp đến ném bom, cả lớp phải sơ tán. Anh hướng dẫn các em nhỏ xuống hầm ẩn nấp rồi mình sẽ xuống sau. Nhưng không kịp! Bom đã dội xuống và anh đã bị thương, mảnh đạn găm vào người, máu chảy lênh láng. Dứt đợt báo động, anh được đưa đi cứu chữa. Người lớn thì cáng còn các em nhỏ thì vừa chạy theo sau vừa khóc thút thít vì thương anh quá, sợ anh bị làm sao! Anh được chuyến một cái lán ở La Bằng để được cứu chữa, chăm sóc tử tế. May quá, mảnh đạn chỉ găm vào phần mềm phía bên trái người anh, đến nay mảnh đạn vẫn còn nằm ở đó. Bộ quân phục anh mặc lúc đó bị thủng nhiều lỗ. Sau này chúng tôi giữ lại như một kỷ vật thời chiến đấu của anh. Từ đó anh luôn xứng đáng là một Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Các con tôi không những tự hào về điều đó mà còn rất tự hào vì có bố là thương binh! Suốt cả thời kỳ bao cấp tấm thẻ thương binh có giá trị vô cùng. Có nó người ta sẽ được ưu tiên về nhiều mặt như không phải xếp hàng để mua hàng, đi tàu xe không mất tiền, con em thương binh liệt sĩ đi học được hưởng nhiều quyền lợi. Các con tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao nhà mình lại không có thẻ thương binh để được ưu tiên? Đó là vì bố các cháu không chịu đi làm thẻ thương binh. Anh nghĩ đơn giản rằng việc anh bị trúng đạn xảy ra đã quá lâu và vết thương cũng đã lành rồi, hơn nữa thủ tục làm thẻ thương binh cũng rất rắc rối như bất cứ một loại giấy tờ nào trong thời bao cấp!

Sau này khi nước nhà đã thống nhất anh gặp lại đồng chí Lê Chiêu (lúc này đã mang quân hàm thiếu tướng) trong một cuộc họp mặt truyền thống của thiếu sinh quân, anh hỏi đồng chí Lê Chiêu: “Hồi đó anh giới thiệu tôi vào Đảng, bây giờ anh có ân hận gì không?”. Đồng chí Lê Chiêu không nói gì, chỉ đến bắt tay anh thật chặt và cười vui sướng đầy vẻ tự hào.

Năm 1951, sau chiến dịch Biên Giới, trường Thiếu sinh quân Việt Nam dời sang Quế Lâm (Trung Quốc) để có điều kiện ăn học tốt hơn do Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc dành cho. Trường Thiếu sinh quân Việt Nam lúc này trở thành trường Thiếu nhi Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và được bổ sung một số lượng đông đảo các em thiếu nhi từ trong nước sang, rồi sau đó lại sáp nhập vào Khu học xá trung ương đóng tại Nam Ninh (Trung Quốc).

(Phần này viết theo nhật ký của Phạm Tuyên hồi đó và theo lời kể của bạn bè và học trò của anh).

N.A.T.

Tháng Mười 26, 2022

Phạm Quỳnh, một sĩ phu Hà Nội

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 7:18 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 1 tháng 11 năm 2022.

 PHẠM QUỲNH, MỘT SĨ PHU HÀ NỘI

Phạm Tôn

Năm 1908 Phạm Quỳnh đã đỗ thủ khoa năm đầu tiên của trường Trung học Bảo Hộ. Nhân dân thường quen gọi là “Thủ khoa Tây trường Bưởi”.

Pham Quynh_1922 tai PhapCũng năm 1908 ấy, trường Đông Kinh Nghĩa Thục của cụ Cử Can ở phố Hàng Đào bị Pháp đóng cửa. Chàng học sinh con nhà nghèo đến mấy đời Phạm Quỳnh đã cùng các bạn tham gia đấu tranh phản đối nhà đương cục. Bị Pháp bắt, nhưng rồi được thả vì chưa đến tuổi thành niên.

“Thủ khoa Tây” được tuyển ngay vào làm nhân viên trường Viễn Đông Bác Cổ, một cơ quan nghiên cứu khoa học lớn, đủ mọi mặt toàn xứ Đông Pháp. Năm ấy, “công chức” Phạm Quỳnh mới mười lăm tuổi. Vốn ham hiểu biết, lại được làm việc dưới sự chỉ bảo của các “đại sư” người Pháp uyên thâm nhiều lĩnh vực, và được ở bên, ở ngay trong kho sách lớn có một không hai trong nước ta, Phạm Quỳnh thả sức học tập, đọc miệt mài, hết tra cứu, đến so sánh, lại ghi chép… đến quên cả giờ về nhà. Tại đây Phạm Quỳnh quen biết Nguyễn Văn Tố, sau này cũng là một học giả nổi tiếng, từng tham gia chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đầu tiên của cụ Hồ.

Những năm làm việc ở Trường Viễn Đông Bác Cổ (1908-1917) cũng chính là những năm học tập miệt mài, khổ công tự học và thành tâm, khiêm tốn học hỏi các bạn đồng nghiệp Pháp Việt đã đưa Phạm Quỳnh từ một thanh niên hiếu học trở thành một nhà nghiên cứu có kiến thứPham Quynh chu but Nam Phongc vững chắc, khá toàn diện về nhiều ngành khoa học xã hội và cả khoa học tự nhiên nữa. Đặc biệt, từ một học sinh chỉ viết được có hai chữ nho tên mình, suýt bị trượt kỳ thi tốt nghiệp trường Trung học Bảo hộ vì bài dịch Hán văn ra Pháp văn đáng lẽ bị điểm liệt, may mà được các giám khảo nương tay cho nửa điểm mới đỗ “Thủ khoa Tây”, sau chín năm trời đã trở thành một nhà Hán học uyên thâm, có thể đọc, dịch và viết văn bằng chữ Nho thành thạo. Chủ yếu là do công tự học kiên trì và có phương pháp đúng.

Do có vốn liếng vững chắc về khoa học xã hội, năm 1913, Phạm Quỳnh đã trở thành một cây bút quen thuộc, được tín nhiệm trên Đông Dương tạp chí của người bạn cùng học trường Thông Ngôn năm nào Nguyễn Văn Vĩnh. Từ đó Phạm Quỳnh nổi tiếng với nhiều bài nghiên cứu sắc sảo, chững chạc, già dặn hơn tuổi đời hai mươi của mình rất nhiều.

Những bài báo đó “lọt mắt xanh” của Louis Marty, giám đốc Vụ Chính trị Phủ Toàn quyền Đông Dương và cả bản thân Toàn quyền Albert Sarraut nữa. Hai con cáo già thực dân này đã quyết định dùng Phạm Quỳnh làm cầu nối giữa Pháp và Việt Nam, giữa lớp trí thức cũ Hán học và lớp trí thức mới Tây học.

Năm 1917 tạp chí Nam Phong ra đời với chủ bút phần quốc ngữ là Phạm Quỳnh, mới hai mươi bốn tuổi.

Chẳng bao lâu, tạp chí Nam Phong đã trở thành tờ báo có uy tín nhất và lớn nhất thời bấy giờ. Báo quy tụ được cả những nhà cựu học uyên thâm lẫn những người tuổi trẻ tài cao. Phạm Quỳnh dùng Nam Phong tạp chí làm cơ quan để “tài bồi” cho văn quốc ngữ trở thành tiếng nói, chữ viết chuyển tải được những sự phát triển mới trong đời sống xã hội, đủ các ngành khoa học.

Vì ông tin rằng, có tiếng mới có nước, tiếng còn thì nước không mất được.

Năm 1922, với danh nghĩa Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức do ông sáng lập, Phạm Quỳnh sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Marseilles. Ông tranh thủ diễn thuyết ở nhiều nơi để người Pháp hiểu thêm và do đó tôn trọng nước và người Việt Nam mình. Ông còn nhờ các bạn bè người Pháp quen biết từ hồi họ còn ở Việt Nam mà tìm ra đường đến diễn đàn Viện Hàn Lâm Pháp. Bài nói của ông thuyết phục đến nỗi các viện sĩ có mặt nhất loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng, một hiện tượng chưa từng xảy ra ở nơi tụ hội tinh hoa của cả nước Pháp, gây chấn động lớn khắp thủ đô Paris. Ông nói dân tộc Việt Nam không phải là một tờ giấy trắng, ai muốn viết gì lên cũng được. Mà là một quyển sách cổ, đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai. Nếu muốn cũng chỉ có thể đóng quyển sách ấy lại theo lối mới cho hợp thời trang, chứ không thể viết một thứ chữ khác lên những trang đã đầy chữ rồi. Ông kiên quyết bảo vệ bản sắc Việt Nam.

Những ngày ở Paris, ông đã gặp và trao đổi ý kiến với Nguyễn Ái Quốc ít nhất ba lần; một lần còn được Nguyễn Ái Quốc “đích thân tổ chức bữa cơm Bắc thết khách Bắc” tại nhà luật sư Phan Văn Trường.

Ngày 8/9/1924, Phạm Quỳnh là người đầu tiên đứng ra tổ chức kỷ niệm ngày mất thi hào Nguyễn Du. Trước hơn 2000 người tham dự, câu nói bất hủ của ông đã được đồng thanh tán thưởng

Truyện Kiều còn tiếng ta còn, Tiếng ta còn nước ta còn.

Năm 1925, Phan Bội Châu bị đưa ra xét xử ở Tòa Đề hinh Hà Nội, nơi kết án tàn bạo nhất. Phạm Quỳnh không ngần ngại viết bài trên báo Indochine Républicaine (Đông Dương Cộng Hòa) lớn tiếng bênh vực nhà chí sĩ “chỉ có một tội là tội yêu nước” như tất cả mọi người Pháp yêu nước chống quân ngoại xâm xưa nay. Ông cốt nói rõ với những người Pháp còn có lương tri ở Đông Dương và càng muốn nói thẳng với người Pháp ở ngay chính nước Pháp. Phạm Quỳnh đã góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân hồi ấy đòi khoan hồng cho Phan Bội Châu. Thế rồi, từ một án tử hình, tám án chung thân, hạ dần xuống mức chỉ còn bị quản chế ở Bến Ngự xứ Huế. Mười lăm năm cuối đời Phan Bộ Châu, nhà báo Phạm Quỳnh, rồi Thượng thư Phạm Quỳnh lúc nào cũng bênh vực, tận tụy chăm sóc ông về tinh thần và cả vật chất nữa. Cho đến năm 1940 Thượng thư Phạm Quỳnh vẫn không ít lần đến tận nhà thăm và giúp đỡ nhà chí sĩ cho đến khi Phan Bội Châu qua đời.

Năm 1926, Thống sứ Bắc Kỳ René Robin có “nhã ý” trợ cấp cho tạp chí Nam Phong. Nhân cơ hội này, Phạm Quỳnh xin trợ cấp cả cho Nguyễn Văn Vĩnh mà ông trình bày trong thư gửi Robin là đã và đang làm nhiều việc mà còn gặp nhiều khó khăn hơn ông.

Ngày 4/12/1931, Phạm Quỳnh đã đưa ra trước Hội đồng cấp cao Đông Dương về Kinh tế-Tài chính đòi bãi bỏ chính sách độc quyền sản xuất rượu gạo ở Bắc Kỳ. Cuộc vận động này đã thành công, mở ra một thị trường rượu ở Bắc Kỳ, có cạnh tranh ở mức độ nhất định, khai thông phong trào cải cách ở Đông Dương và những nỗ lực bãi bỏ độc quyền cả ở các mặt kinh tế lẫn chính trị.

Năm 1932, Phạm Quỳnh vào Huế làm Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục kiêm Tổng lý Đại thần Ngự Tiền Văn Phòng. Thì ngay cuối năm sau, ông viết thư cho Louis Marty đề nghị khoan hồng cho người cộng sản trẻ tuổi Nguyễn Công Nghi bị kết án đày ra Côn Đảo hoặc nước ngoài vì tội “âm mưu cộng sản” ở Kiến An. Có lẽ xưa nay không có ai vừa nhậm chức lại đi làm một việc như thế, không hề nghĩ gì đến “cái ghế mình ngồi còn chưa ấm chỗ”.

Năm 1936, khi Nguyễn Văn Vĩnh chết thảm trên đường đi tìm vàng tại Lào thì Phạm Quỳnh đang là Tổng lý Đại Thần Ngự Tiền Văn Phòng và Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục. Vậy mà ông lại làm bài thơ Khóc Nguyễn Văn Vĩnh; Trong đó, bốn câu cuối rất lạ:

Sống lại như tôi là sống nhục.

Chết đi như Bác chết là vinh

Suối vàng Bác có dư dòng lệ.

Khóc hộ cho tôi nỗi bất bình.

 Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp rồi dựng lên chính phủ Trần Trọng Kim. Phạm Quỳnh rút khỏi chính trường, về nhà sống ẩn dật, chuyên tâm trở lại với nghề viết mà ông hằng yêu quí. Trong những ngày biến động này, ông em vợ thấy anh rể cứ bình chân như vại thì sốt ruột quá mới khuyên anh “nên tránh đi, sang Lào chẳng hạn vì xem ra vua Lào quí anh lắm.” Thì Phạm Quỳnh thản nhiên trả lời là “Chính lúc này mới càng cần ở trong nước để đem tài trí ra giúp nước”. Rồi lại cặm cụi đọc sách, viết văn.

Ông tự nhận “Đã lỡ lầm mà ra làm quan” vì tưởng “cái thân nho quèn” của mình có thể làm được những việc có ích cho dân cho nước mà trước đây chỉ thể hiện được trên giấy trắng mực đen. Ông “khởi động” bằng việc dịch thơ Đỗ Phủ, nhà thơ lớn Trung Quốc mà ông phục tài và yêu mến vì có phần cùng cảnh ngộ. Trong những ngày hè xứ Huế năm 1945 nóng như đổ lửa, ông cặm cụi dịch thô được 51 bài thơ tâm đắc thì ông gửi ngay vào Hà Tiên cho vợ chồng nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, bạn thân và người cộng tác cũ của Nam Phong. Sau đó “có đà rồi” ông bắt đầu đọc thật nhiều, nghĩ càng nhiều hơn để bắt tay vào viết những trang sách cuối đời mình. Bấy giờ, ông chuyên viết tạp văn, kiểu tạp văn của Lỗ Tấn. Thật sâu sắc, độc đáo nhưng lại rất ngắn gọn, súc tích, dễ đọc. Ông đặt tên cho bộ sách mới của mình là Hoa Đường tùy bút – Kiến văn, Cảm tưởng. Hoa Đường là tên làng quê ông xưa, những năm cuối này ông thường lấy làm bút danh. Trong bộ sách này, ông muốn dốc hết những gì mình từng thấy, từng nghe trong cuộc đời hơn ba mươi năm chìm nổi và cả những cảm tưởng khi mắt thấy, tai nghe hoặc đọc được, trình bày ra trang giấy để lại cho người đời sau có thêm kinh nghiệm sống. Trên bìa cuốn vở học trò, ông nắn nót ghi tên bộ sách mới, còn cẩn thận ghi thêm chữ số I La Mã; vì đây là cuốn đầu trong bộ sách mới, bộ sách cuối cùng mà ông quyết chắt lọc tinh túy trong cả cuộc đời mình để viết ra, không biết sẽ gồm bao nhiêu cuốn vở như thế này. Phạm Quỳnh còn giống Lỗ Tấn cả ở cách viết. Bản thảo đầu tiên thường cũng là bản thảo cuối cùng, chỉ thêm bớt mấy chữ hoặc chuyển vị trí vài dòng vài chữ mà thôi. Khi đưa đi in mới chép lại cho dễ đọc, khỏi làm khó thợ in. Thế thôi…

Biet thu Hoa DuongNhưng không ngờ quyển vở bản thảo số I mới viết đến trang số 48 được chừng nửa bài văn tâm huyết nhất đời ông nhan đề Cô Kiều với tôi thì đến giờ nghỉ trưa, ông mở trang vở viết dở, đặt ngang cây bút Waterman lên trên như để chiều sẽ viết tiếp, rồi đi ăn cơm và ra ghế xích đu ngồi nghỉ một lát thì có người đến báo: “Ủy ban khởi nghĩa Thuận Hóa mời ông ra làm việc.” Bà vợ nhác thấy người đến “mời” đeo băng cờ đỏ sao vàng ở tay thì thét to lên rồi ngất đi. Nhưng ông vẫn thản nhiên mặc áo dài đen, đầu để trần, tin cậy lên xe hơi đến đón. Cô con gái cưng xin chờ cho một chút để cô lấy thuốc dạ dày cho ông đem theo thì ông cười và dịu dàng bảo con: “Không cần đâu, chiều thầy về”.

Và ông lên xe, đi đến nơi làm việc như được mời.

Hôm ấy là ngày 23/8/1945.

Tp Hồ Chí Minh, 30/08/2014

P.T.

Tháng Sáu 18, 2022

Giã từ cảng thân yêu – P3: Sông Hồng dậy sóng – 1971

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:46 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 2 tháng 6 năm 2022.

Chuyện một người cháu ngoại

GIÃ TỪ CẢNG THÂN YÊU

  1. Sông Hồng dậy sóng- 1971

Tôi bắt đầu năm 1971 chứa chan hy vọng tự tin, quyết tâm, lòng vui phơi phới. Dậy từ 5 giờ đưa em Nhàn và cháu Hải con em ra bến xe đi Nông trường Mộc Châu. Những bến xe bến tàu con phà… bao giờ cũng gợi nơi mình những khát vọng được đi xa, được nhìn nghe ghi nhớ nhiều điều mới lạ. Cũng là dịp để cảm thấy bản thân dốt nát lạ thường, dốt nát toàn diện, những điều không biết, chưa hiểu rõ còn nhiều vô hạn, chẳng mong gì giỏi giang, chỉ mong bớt dốt tí nào hay tí ấy.

Thế mà bao giờ cũng mong có ngày cầm bút viết lách.

May mà bên mình còn có những bạn cùng chí hướng. Ngô Tiến Thái bạn mới rời cảng đi bộ đội, và vẫn làm thơ gửi về cho mình. Cô bạn nhỏ mê sách ở báo Tiền Phong. Chiều ngày đầu năm Tây, mình đến thăm cô, mang theo cuốn họa báo Liên Xô có bài và ảnh nhà thơ Étxênhin. Cô bạn nhỏ thích lắm. Nhưng chỉ cho xem,  vì là báo mượn. Cô bạn thích quá, đọc ngay, còn nói là rất thích thơ Block, đọc mấy câu thơ dịch của Block lại còn thích cả Đôxtôiépxki. Tối, mình đem tranh Đốt, Block và cả ảnh Étxênhin do chủ tờ họa báo cắt cho. Tiếc là không gặp, đành gửi cô bạn cùng buồng. Thế là mình có tổ ba người một nhà thơ, một phóng viên và mình đều say mê văn học nghệ thuật, muốn hiến cả đời cho sự nghiệp đó.

Mình treo trước mặt bàn làm việc ở nhà bức tranh do Giucốp vẽ: Ăngghen nằm ngả trên giường, đầu gối cao, tay phải cầm bút, tay trái cầm bản thảo bộ Tư Bản của Mác, bên giường là một cái ghế con, một cái áo khoác mắc chỗ tựa lưng. Trên mặt ghế, một ly nước có thìa nhỏ, một lọ thuốc bé và chồng bản thảo dầy Ăngghen viết theo ý định của Mác.

Sáng 6/1, một người vừa bị kỷ luật đến phòng giám đốc Nguyễn Kim Bài chửi thậm tệ, vạch ra nhiều vụ đen tối mờ ám của cả một bè lũ tham ô ở cảng. Hầu như ngày nào cũng có những vụ chửi bới như thế. Xem ra dân cảng đã tức nước muốn vỡ bờ rồi.

Tối em Nhàn từ Mộc Châu về Hà Nội học, mang theo cháu Hà là con thứ hai. Cháu khỏe, da trắng, mắt to đen lay láy. Sắp Tết rồi. Cả nhà đoàn tụ. Em Nhàn nói anh phải làm thế nào chứ, hốc hác quá. Mình cười, trả lời rất vô duyên bằng một câu vợ Lênin nói về Người: Người không chết sớm sao được. Thật lòng mình muốn sống thật lâu, vì tài hèn, sức mọn như mình, phải sống thật lâu mới mong làm được một chút gì cống hiến cho nhân dân.

Sáng 16/1/1971 đến nhà chị Dung nhân viên phòng hành chính giúp tổ chức đám cưới con trai. Lạ thật mới ở bộ đội về chưa có công việc lại cưới vợ. Cưới thì tất nhiên có ăn có uống. Thế là đủ mặt lãnh đạo cảng đến chén chú chén anh. Ngày chị Dung ốm đau, có ai tai to mặt lớn đến hỏi một câu. Nay mấy con ngan, gà nhà chị bị giết để làm cỗ bàn thì lại có đủ mặt bí thư đảng ủy, chánh phó giám đốc, chánh phó thư ký công đoàn bí thư thanh niên, trưởng phòng hành chính đến dự.

Sau thời gian nắm tình hình và suy nghĩ kỹ, mình thấy từ nay phải đứng ra lo việc chi tiêu trong gia đình, không thể để mẹ lo quá nhiều, không để ai trong nhà vô trách nhiệm với cuộc sống chung được. Từ nay, mỗi người làm ra được bao nhiêu tiền đều phải nộp hết, chỉ được tự ý chi tiêu trong vòng 5 đồng như một tân binh. Tất cả vì cuộc sống của cả gia đình, nhất là lo cho mẹ, bác già, cu Hà. Không được để trẻ con người già thiếu thốn quá. Chưa tăng gia sản xuất được thì phải thực hành tiết kiệm. Cậu Phạm Khuê dặn dò rất kỹ càng, góp ý cho cả việc nghỉ ngơi xen kẽ để có thể làm việc được lâu dài. Cần hết sức tiết kiệm sức khỏe, không được có những việc làm vô nghĩa, suy nghĩ vô ích. Suốt mấy ngày giáp Tết Tân Hợi 1971, mình lo trang trí nhà Đỗ Xuân Bảo nơi mình vẫn tá túc bấy lâu nay khi nhà không có ai về. Còn ngâm, thái măng chuẩn bị ăn Tết. Tối 30, về nhà ăn cơm, rồi đến nhà ông thuyền trưởng Hồng, bố em Nguyễn Mạnh An. Lại ăn, uống rượu, trong bữa ăn nhiều lần ông nói không có anh thì không có con bé Phương này. Em Phương 6 tuổi, hiền ngoan, xinh xắn cứ luôn gắp món ăn cho mình, cặp mắt nâu, chân thành, thân thiết lắm. Có gì đâu, mình đến nhà thấy con bé xanh xao, tái mét, hen sù sụ. May có ống thuốc viên to đỏ có thành phần Vitamin B12 bà cô ở Pháp gửi cho, bèn cho em, không ngờ em khỏe ra, có đà, lại như những đứa trẻ khác. Sau đó về cảng, chiếu phim đèn chiếu cho công nhân nghỉ giữa ca. Ghé nhà cụ Nguyễn Văn Sán lão làng bến cảng, rồi 22 giờ lại về cảng chiếu phim cho công nhân làm Tết xem. Xong là xuống anh em ca nô, ăn bánh chưng uống rượu, chè, thuốc lá, đón giao thừa nghe lời chúc tết của Bác Hồ Bác Tôn, xem pháo hoa ngay trên mặt nước sông Hồng cùng thuyền trưởng Tường, máy trưởng Thanh, cùng các thủy thủ ca nô sà lan. Đêm ấy, ngủ chung chăn chung màn với một thủy thủ trẻ trên một xà lan nhỏ. Sáng mồng một Tết, cả nhóm trên sông lại tụ họp chè, bia mỗi người tu một chai, lại bánh chưng thuốc lá. Rồi là du xuân xuất hành. Máy nổ giòn ca nô đi một vòng kiểm tra hai bờ sông thuộc phạm vi cảng. Thật sảng khoái, hạnh phúc. Ngày mồng một, còn sang Gia Lâm thăm một cán bộ công đoàn, bạn chiến đấu nội thành của cụ Sán. Ông đã có tuổi, hiện làm ở ban kiểm tra Liên hiệp công đoàn Hà Nội. Nhà ở bãi giữa, mái lá nát, vách gỗ sơn xanh lá cây rất đẹp, cuộc sống thanh bạch, tư cách cao thượng của bác Nguyễn Văn Khánh khiến mình mến phục. Trưa mồng hai, bác Trần Hữu Thông, người bạn vong niên đến nhà, ở cho đến tối. Rất tiếc là cơn đau thần kinh hông to khiến mình chỉ nằm mà tiếp chuyện ông. Cũng không thể dự lễ cưới Nguyễn Đức Hoan, một bạn thân từ thời học cấp hai.

Đêm đau mỏi rã rời, ngủ mê mệt. Sáng dậy, đọc Gia đình búp bê của Íp xen chị Thanh Vân cho mượn. Quá hay. Lại nhớ dến bài Nôra đi rồi thì ra sao? của Lỗ Tấn, càng sợ cái sáng suốt, triệt để của tư tưởng Lỗ Tấn. Nhà văn ngày nay phải là một nhà cách mạng triệt để.

Tối thứ bảy, dự cuộc họp mặt với các bạn cùng học Chu Văn An ở nhà Nguyễn Đức Thoại cùng tổ cũ. Tết, vui, nhộn, nhắc nhớ nhiều kỷ niệm tươi đẹp thời học sinh vô tư, ở cái khối 10 có đến lớp 10H. Bọn mình là 10E. Rõ ràng là các bạn yêu mến, hy vọng chờ đợi nhiều ở mình. Không ai muốn tin là mình chỉ làm được những việc thật sự mình đã làm. Các bạn tin và mến mình đến mức không cho phép mình được làm một người bình thường… như các bạn. Bực mình, tôi đứng dậy móc trong túi áo ra một miếng sôcôla Liên Xô tròn bọc thiếc vàng như một đồng tiền xu. Tôi bảo bạn gái duy nhất dự họp là bạn Thuyết nay là đại úy bác sĩ công an xem có thích cái này không. Cô đỏ mặt, mắng tôi là đồ đểu. Tôi nói tôi tưởng tôi thích thì bạn cũng thích nên mới mời, ai ngờ bạn khác người. Tôi đành bóc ra mời bạn ngồi cạnh ăn. Mấy bạn khác cũng ăn ké, rồi mọi người vỗ tay cười vui vẻ. Chị ta nhầm với cái đồng tiền vàng Tiệp Khắc, trong là cái … bao cao su!

Ngày 22/2/1971 sinh nhật mình rơi đúng ngày thứ hai, ngày bận rộn nhất trong tuần. Sáng, mang đến Cảng một lô dụng cụ thí nghiệm của nhà và xin được, anh em giáo viên và học viên phấn khởi lắm. Chiều, ba chú Chung, Thủy, Lân rán cá, nấu canh cua, còn mua cả bốn chai bia Hà Nội, mời mình ăn cơm với các chú. Buổi tối, các lớp học rất vui, mình dạy thay bác Thông một tiết văn, học viên rất hào hứng. Các giáo viên , nhất là Lập, Ruật hăng hái sẵn sàng làm đồ dùng giảng dạy vào các buổi trưa thứ tư, thứ bảy. Tan học, về nhà tập thể ngủ… Nghe Vi và hai cậu nữa ngâm thơ Thanh Hải, xúc động nhớ đêm nào được nghe bài Quê hương này trên bờ cát sông Gianh. Mất điện. Mình giảng cho Chung mấy bài toán dưới ánh lửa bập bùng của cái chai nhỏ có nút vải làm bấc.

Chiều hôm sau, thăm cháu Hà đang thở khò khè, sau khi tiêm hai mũi Streptomyxin. Cháu Ngọc thì nằm bệnh viện Đống Đa, bị xuất huyết đường ruột. Lo quá không biết lấy gì trả nợ khi mà tiền vào nhà mình như gió vào nhà trống.

Trưa thứ sáu, về nhà, nhận được cuốn sách anh Đại gửi Yêu mến tặng em Thành nhân ngày sinh 22/2 – Anh Đại 2/71. Mình đã 31 tuổi, hết tuổi Đoàn. Lẽ ra, trưa nay, thứ ba, 2/3/1971, mình đã được làm lễ ra Đoàn. Nguyễn Thế Hào, bộ đội chuyển ngành, cùng làm chuyên trách công đoàn với mình, là bí thư chi đoàn xin ý kiến các đồng chí, yêu cầu các đồng chí ở lại họp cho mươi phút để làm lễ ra đoàn cho đồng chí Thành, chỉ cần năm mười phút thôi là đủ… nhưng đã 14 giờ rồi, đến giờ làm việc, đành hoãn vì chẳng ai bằng lòng ở lại thêm một phút. Cuộc họp đã muộn một giờ so với giờ triệu tập. Chưa bao giờ thấy Đoàn mất giá như ở đây, bây giờ… Hôm sau, tình cờ soạn bài, được biết Newton thọ đến 84 tuổi. Về già ông vẫn sống đơn độc, có cô cháu gái lo cho mọi việc. Xem ra mình cũng mong được như thế mới mong có thời giờ để làm những việc cần làm. Tối ấy cô Lê Thị Thu ở nhà bên sang chơi, tưởng mình ốm nặng ở nhà đã lâu, kêu là mắt sâu, mặt gầy quá.

Bang do thanh nien xung kich

Một sáng, mình về thăm nhà in báo Nhân Dân có việc liên hệ mua giấy loại cho học viên, nhưng chính là về thăm các bạn cũ. Các anh,  các bạn vui mừng đón mình, tin cậy kể cho nghe những chuyện riêng về các bạn cũ và bản thân từng người, những con người thú vị, đôi khi kỳ quặc, nhưng dù sao cũng đáng mến vì đã dám đặt ra cho bản thân một mục đích trong cuộc sống, để quyết tâm thực hiện mục đích ấy. Thăm cả Nguyễn Văn Thịnh, bạn sửa bài bị ốm, gặp thêm một số bạn thợ in cũ, trò chuyện thân mật. Anh em vẫn quí và tin mình lắm, nói thẳng hết mọi chuyện… Thật là sai khi lâu nay không đến thăm các bạn. Cậu Khuê cũng ở khu tập thể Kim Liên. Ghé thăm cậu, cậu bầy cho nhiều cách để có thể làm việc bền bỉ lâu dài.

Thứ ba, 16/3 Nguyễn Xuân An đã về, vừa đến chơi. Gầy, già, mặt đen xạm, lại đeo kính trắng. Vẫn còn ở Đội điều trị 12. Kỳ này sẽ phục viên vì không còn đủ tiêu chuẩn chuyển ngành. Thế mà gặp nhau, An rất vui. Trò chuyện mà cứ buồn cười vì hai thằng thanh niên mà trông cứ như hai ông lão hom hem.

Thứ sáu 19/3/1971, Cảng có một cuộc họp nhỏ mà to. Chi bộ văn phòng 3 họp kiểm điểm phó giám đốc Nguyễn N., công nhân quen gọi là lão N. Béo vì lão ục ịch như một người Tàu bán dàu cháo quẩy. Đây là kế sách thí tướng của Đảng ủy Cảng, đứng đầu là bí thư Đào Mạnh B. giỏi văn thơ thà giết một người cứu cả bọn. Thật lố bịch vì mẹo hay nhưng diễn quá muộn. Cuộc họp này mở đầu cho sự suy sụp của cả tập đoàn tham ô ăn cắp của công của dân dưới danh nghĩa cao quí của Đảng.

Sáng chủ nhật 21/3, dậy sớm thu xếp cho các cháu Hải, Hà, Ngọc cùng vợ chồng Nhàn Long đi xem xiếc do Nguyễn Thế Hào mua vé hộ. Mục đích là đón cháu Hải về sống ở nhà và tiễn bố con Hà về Mộc Châu. Soạn giấy tờ cũ, tình cờ thấy thư của Nguyễn Thị Bạch Kim cô bạn cùng tuổi biết nhau từ năm 1955 khi Kim từ Trung Quốc về theo đoàn của Khu học xá Trung ương trình diễn văn nghệ tại Đại hội liên hoan văn nghệ toàn quốc. Thư gửi từ Nghĩa Lộ, ngày 29/11 hồi Kim mới ra trường Nhạc, chữ viết rất to rõ ràng: Còn công việc của Thành ra sao, học  được nhiều chưa và có hay ốm không. Cô bạn thật hiểu mình, cả cuộc đời chỉ gọn trong ba thứ: công việc, học và hay ốm. Tiếp đó là một việc rất khó chịu nhưng lại hết sức cần thiết lúc này: Tính toán kỹ tiền nong sao cho cả nhà có cái ăn đến kỳ lương tới. Cứ ngồi vào bàn, tai nghe mẹ nói đủ thứ chuyện trả lời cho có lệ… Phố ồn ào, loa khu phố hát những bài hùng hồn, tha thiết về Đường Chín Nam Lào, mặt trận lớn nhất hiện nay.

30/3/1971, đọc xong cuốn sách của Prisvin Bốn mùa – Lịch thiên nhiên. Em Thân đến gần mình, mình cất nhật ký đang ghi đi, rồi nói về Prisvin khen là tế nhị, tinh vi, còn kể lại cả một đoạn ông viết về Sêriôgia mình cho là sâu sắc… Em nghe chăm chú, sau đó nói một câu làm mình bất ngờ: Lúc này mà còn đọc Prisvin được, còn thưởng thức được cái hay cái đẹp thì lạ thật… Có lẽ em ám chỉ mình ốm đau, túng thiếu, bận bù đầu, vừa chở hai bao tải trấu từ cảng về mệt rã rời, cả người bẩn thỉu… sao tâm hồn bay bổng thế được.

Chiều 1/4, gió lớn, khoảng sáu giờ chiều thì mưa mạnh nhưng thưa hạt sấm chớp đùng đùng. Trời trở lạnh. Gần giờ học, mình và Lê Văn Thát ngồi ở văn phòng công đoàn nhìn trời mưa, lo không có học viên. Sát giờ học, mưa tạnh, cả học viên các lớp được nghỉ cũng đến yêu cầu dạy. Thì ra cái đốm lửa văn hóa đêm đêm vẫn sáng trên nền đen tối tăm ám muội ngu xuẩn của Cảng.

Ban lãnh đạo cảng đang lo sốt vó, tìm mọi cách đối phó với Đại hội công nhân viên chức Cảng, ngăn cản những đại biểu chống đối, hạn chế nội dung phát biểu ở hội nghị, Tối nay là đại hội trù bị, mình đành nghỉ học để tận mắt thấy, tận tai nghe mọi diễn biến của hội nghị. Tối 2/4 và cả ngày 3/4  đều dự Đại hội. Các thủ đoạn của ban lãnh đạo kìm hãm tự do dân chủ đã thành công. Đại hội diễn ra tẻ nhạt, gần như chưa từng có đại hội. Tối hôm sau, Nguyễn Xuân An đến chơi, cho một cái quần bảo hộ lao động cũ bảo sửa đi mà mặc. Nói chuyện khá lâu về tầm sâu sắc của con người, mình nêu vấn đề, An cho ngay những dẫn chứng minh họa. Hai đứa mình nhắc đến Thái, lâu nay vắng thư. Mong rằng bạn đã trở lại đơn vị chiến đấu, thoát ra khỏi những tư tưởng u ám thời gian vừa qua. Đêm chủ nhật 4/4, mơ thấy  hai chuyện sáng ra còn nhớ rõ. Có một lớp học với mười học viên lớn tuổi do một cô công nhân Cảng dạy. Toàn là nữ. Mình và một số thanh niên đang đi xe lửa ra tiền tuyến.

Mỗi tối đi học về là đến ngay Cảng. Cậu Khuê bảo ít về nhà có lợi cho sức khỏe và cũng lợi cho tư tưởng hơn. Gặp Nguyễn Văn Tân và Bùi Lê Nghiên đi bộ về sau lớp học Pháp văn, thế là thành xe Din ba cầu. Mình đèo Nghiên ở gióng trước, còn Tân ngồi chỗ đèo hàng. Có cái xe đạp này là nhờ chuyến đi Quảng Bình về mới được phân phối. Từ nay, cứ tối học xong là về ngay cảng, anh em ở khu tập thể mong mình về với anh em nói chuyện giúp họ học. Nhiều chú kéo áo hỏi việc đi Công trường 71. Mình không biết gì cả. Sau gặp anh em lái xe mới biết cảng sẽ đưa khoảng 60 người vào công trường 71, làm đường  phục vụ tiền tuyến. Nói công trường 71 tức là ngay đường 9 rồi. Xem ra, không ai hào hứng đi cả. Nhất là mấy cán bộ được dự kiến cử đi cứ nằng nặc đòi ở lại. Lái xe Đoàn Phát Thanh ở buồng cạnh buồng Bảo lái cẩu nói Hậu phương có thể nói là khốn nạn anh nhỉ, không hết lòng với tiền tuyến, lại không nhiệt tình đón nhận những người chiến đấu trở về. Bây giờ Thanh đang trầm ngâm. Nhưng mình tin là khi Tổ quốc yêu cầu chàng trai Tiền Hải vạm vỡ ấy sẽ lên đường lập chiến công vẻ vang. Thanh nói đúng. Cả ngày 14/4 cán bộ cảng họp bàn cử người đi công trường 71, đi B, đi C. Lãnh đạo cảng có kế hoạch tống khỏi cảng những người mình không ưa. Cục trưởng Bình Tâm cho biết bộ đã phát hiện ra âm mưu này, buộc bí thư B. lên gặp đảng đoàn bộ. Vì thế buổi họp công bố danh sách biến thành cuộc họp phổ biến chủ trương chung. Mọi cán bộ phải nộp lý lịch để bộ xét và chỉ định.

Trưa 9/4, ăn cơm, uống rượu đến say ở nhà Đỗ Xuân Bảo lái cẩu, tiễn Nguyễn Văn Kế lái xe đi công trường 71. Kế không vui lắm vì phải đi thay người được chỉ định nhưng nhất định không chịu đi. Đoàn Phát Thanh tuyên bố: Đi là đi không có thèm quì gối khom lưng xin xỏ như lũ đớn hèn. Gia đình có gay thật đấy, nhưng cần thì cứ đi. Chỉ dặn một câu thôi, không làm đúng như lời dặn thì không về nữa…

Tối 11/5, mưa to như trút nước, vừa mưa vừa gió, chỉ một lúc là trong nhà cũng mát hẳn đi, đêm ngủ đắp được chăn bông. Cứ nghĩ đến nhà em Nguyễn Mạnh An chạy mưa khổ đến thế nào. Cái Phương 6 tuổi ít nói mà cũng than: Ngồi mà cũng ướt. Cứ nghĩ thế mà mãi mới ngủ được.

Từ sáng 19/5 mưa như trút nước, gần như bão. Mãi đến 11 giờ mới thưa hạt. Chiều 28/6, bí thư đảng ủy cảng Đào Mạnh B. mời toàn thể cán bộ, nhân viên văn phòng đến họp để nghe phổ biến nghị quyết của bộ. Không  báo bằng bảng, không nhắc nhở trên loa, gần đến giờ họp mà có ai hỏi có họp hay không thư ký công đoàn Mai Văn S. vẫn nói là không biết. Vậy mà chưa đến giờ hẹn anh em đã lần lượt kéo về, kể cả những người đang ốm, đang nghỉ phép. Chưa bao giờ khối văn phòng đi họp đông đủ lại đúng giờ như vậy. Bác Quảng, một cán bộ ngót 30 năm trong ngành, mấy năm nay vẫn chăm chút bộ râu ria theo kiểu Lênin, hôm nay cạo nhẵn nhụi trông trẻ ra đến mươi tuổi. Bác ngồi ngay hàng đầu, tay cầm bút chăm chú nghe và thỉnh thoảng ghi chép vào một cuốn sổ to. Hàng chục người khác cũng ghi chép. Tất cả đều chăm chú lạ thường đến nổi bí thư Đào Mạnh B. vốn văn hay, thơ giỏi thường ba hoa nói dài hôm nay đâm ra dè dặt nói đã ngắn lại hay lặp lại, nói lắp rất nhiều

Bộ đã công nhận là nhóm lãnh đạo ở Cảng có tham ô, ăn cắp, móc ngoặc. Bộ sẽ xét xử nghiêm từng vụ từng người.

Đó là điều mọi người dự họp chú ý. Họ bỏ ngoài tai hết những lời vo ve tuyệt vọng của Đào bí thư rằng ai cũng có cái sai, làm gì có phe trong cảng này cơ chứ, đây là một tổn thất chung của tất cả chúng ta.

Thế là vào những ngày tháng 6 oi bức, nước sông Hồng đang dâng lên mênh mông đỏ rực, Cảng Hà Nội bắt đầu bước vào một thời kỳ mới sẽ sống lại mạnh mẽ hơn xưa.

Nắng. Suốt ngày 1 và ngày 2/7 đều mệt rã rời. Toàn là họp và học chính trị.  Chiều ngày 1 còn phải đem thân lên sân khấu lãnh phần thưởng của Bộ Giáo Dục, có giấy khen và một cái bút máy Trường Sơn rụt cổ. Buổi trưa mồng 2 , phơi cái quần Thuỳ cho mới toanh số 0 mặc lút gót chân, bị mất cắp.  Thế là chỉ còn đúng một cái quần lành lặn.

Đầu tháng 8, nóng kinh khủng, trưa 36 độ. May mà chưa có gió Lào, nước sông cũng đang xuống dần. Nhưng sắp tới mới là đợt nước lớn, dân bến cảng ai cũng biết thế.

Trong những ngày này, không khí ở cảng sôi sục. Các vụ tham ô lần lượt bị đưa ra ánh sáng. Những người mơ hồ nhất, hiền lành nhất cũng phải lên tiếng ủng hộ cái đúng.

Mẹ lên Mộc Châu với em Nhàn, mình tiếp quản gia tài mẹ để lại lo việc nhà. Hỡi ôi, chỉ có một tờ giấy ghi rõ ràng phiếu nào mua cái gì còn bao nhiêu phiếu thì bà cụ đã quên… mang lên Tây Bắc tất cả rồi!

Cả tháng 8 sẽ toàn ăn giá chợ. Đấy là cái mất thứ nhất. Cái mất thứ hai quan trọng hơn nhiều, đó là thứ giúp  mình kiếm tiền bấy lâu nay. Tư liệu để viết những mẫu nhỏ, vui , có ích mà các báo rất cần, nhất là báo thiếu niên nhi đồng. Trưa nay, nghĩ ra một ý rất thú vị, vội ghi vào phiếu. Khi tỉnh hẳn dậy, mới biết là ghi trong ….mơ

Trưa 8/8,  vừa chợp  mắt thì Đào Văn Thuỳ đánh thức dậy. Chú ta đưa ông bố từ Việt Trì về thăm Hà Nội đến thăm mình. Mục đích là để giới thiệuLinh xe tang Anh Thành mà con vẫn kể với thy đấy. Thuỳ cũng lái cẩu lớn, học ở Trung Quốc về cùng đợt với Đỗ Xuân Bảo. Sau đi bộ đội, cao lớn, đẹp trai, vào đoàn nghi lễ, nhưng chỉ một mực đòi đi làm chiến sĩ xe tăng. Cuối cùng ngày 30/04/1975 vào dinh Độc Lập trong xe thứ hai.

Giữa tháng 8/1971, tình hình ở cảng càng căng thẳng. Công nhân đòi công bố danh sách đại  biểu tham dự đại hội công nhân viên chức để phát hiện những đại biểu không đủ tư cách, không để đại hội vô dụng như kỳ trước. Phó bí thư công đoàn không dám công bố, nói là để đến tối họp trù bị sẽ giải quyết khi kiểm tra tư cách đại biểu nhưng ai muốn xem danh sách thì ông cũng không ngăn cản. Các thư ký công đoàn xưởng và đội bốc xếp 1/5 đều nói kỳ này sẽ đấu đá phải biết. Ở đại hội cơ sở công nhân phát biểu hăng hái lắm…

Mưa vẫn lớn. Nước hồ ngập ngày càng nhiều  khu vực thuộc cảng. Uỷ ban quận đã cho người xuống kiểm tra, sẽ cho mượn máy bơm về  bơm nước ra sông. Hiện nước sông đã cao hơn nước hồ nhiều, lại vẫn tiếp tục dâng. Giám đốc Nguyễn Kim B. ốm, đi nằm bệnh viện. Bí thư Đảng Đào Mạnh B. cũng ốm ít ra phòng làm việc, bí thư thanh niên lúc nào cũng săn hỏi bên công đoàn có đợt an dưỡng nào không… Họ sợ giáp mặt với quần chúng công nhân viên chức quá rồi. Bác Nguyễn Văn Tuân phó giám đốc thì thanh thản rủ mình ra vườn hoa  Chí Linh nói chuyện tầm phào, ăn kem que Tràng Tiền

Ngày 18/8  nước sông vẫn lên, còn lên rất nhanh. Đêm qua bọn con gái rủ nhau nằm hai đứa một giường còn kéo nhau chạy lụt cho nhanh, vậy mà đang ngủ đã thấy ướt hết lưng, với tay là đụng guốc dép lềnh bềnh. Vội kéo nhau chạy. Kiếm xe cải tiến chở đồ đạc  vừa chạy vừa cười nói hồn nhiên. Những con đường đi qua đê sông đều được lấp lại. Ven đê rất nhiều nhà bạt, ni lông dựng tạm để tránh lũ. Bọn con gái nhanh chân chiếm được một cái lều bạt của các chú bộ đội ga lăng. Trong khi đó, nước vẫn lên khoẻ, mặt sông mênh mông cuồn cuộn những làn sóng đỏ. Đã có nguời chết đuối vì đắm thuyền.

Ngày 19/8 Đài truyền thanh Hà Nội truyền đi lệnh khẩn cấp của ban chống lụt bão thành phố. Tăng cường canh gác đê, mỗi điếm ngày phải có 20 xung kích , đêm 30 với đầy đủ dụng cụ sẵn sàng ứng cứu đê, 15 phút tuần tra một lần . Mưa vẫn rất dữ. Mười giờ tối, cảng Hà Nội hoàn toàn ngập dưới nước. Ba giờ sáng, nước bắt đầu lên. Tám chín giờ thì ngập hết các phòng làm việc. 11 giờ nước ngập  đến ngực ngay trong văn phòng. 20 giờ,  có lệnh tất cả cán bộ, công nhân, sinh viên… chuẩn bị sẵn sàng lên đê chống lụt

Hôm sau, loa phường cho biết nước sẽ lên cao hơn tháng 8 năm 1969. Đúng như dự đoán , nước cao hơn năm 1969  trên 30 cm. Và còn đang lên cao nữa. Mình vừa lội một mẻ nước lút cổ mà chẳng làm được gì vì nước cuốn quá mạnh. Rét quá, phải về nhà thay quần áo rồi lại đi vội, mong cứu tủ sách bổ túc văn hóa và tủ sách công đoàn.

Ngày 20, ba lần ngâm nước quần áo không kịp khô. Lần thứ hai mặc quần đùi ướt, cởi trần khoác áo mưa đi xe đạp 6km về nhà. Rất may là lấy được gói quà để ở chỗ làm chờ người lên Thác Bà là gửi cho bà. May thay tối hôm trước, anh Nguyễn Văn Tình con nuôi bà từ Thác Bà về tá túc tại nhà, nhờ anh đem lên là tiện hơn cả. Bốn lần ngâm nước, hai lần bị nước cuốn đi mới lấy được gói quà nhỏ này. Nước vẫn lên nhưng chậm dần.

Sắp ăn cơm chiều thì em Nhàn, cháu Ngọc từ Mộc Châu về nhiều chỗ đường ngập, phà không dám chở phải đi vòng đến Hòa Bình lại phải đi vòng thêm hàng chục km. 10 giờ, 11 giờ, 12 giờ đều thông báo. Bộ tư lệnh thủ đô cho bắn pháo sáng khu vực cầu Long Biên hỗ trợ hộ đê. Trời đầy mây, không mưa. Đêm mát. Mờ sáng đã thấy trời xanh, mát mẻ, thanh bình.

Hôm sau 8 giờ sáng nước đã lên đến 13, 78 cm, cao ơn năm 1969 khoảng 60 cm. Đã mở ba cổng cho nước tự do vào đồng như Phùng,v.v… Chiều qua, xuống Thanh Trì vào nhà chị Vương Tửu ở trong đê. Những chỗ đê mới đắp, đất còn xốp nước đã mấp mé bằng mặt rồi.  Nước sông cao hơn mặt đường nhựa trên đê có đến 1m . Thuyền bè nổi lềnh bềnh rất kỳ lạ, người ngồi trên thuyền cao hơn người ngồi trên xe đạp. Dân ngoài đê đã chạy vào làm lều, dựng túp ở tạm ngay trên mặt đê bên lề đường nhựa. Trong  những túp lều lụp xụp làm vội bằng bạt, giấy dầu, đông chật những người là người, trẻ con lố nhố ngồi trên giường, đàn ông tiếp tục đi cứu đồ đạc còn lại trong nhà. Họ dỡ mái ngói, cưa rui mè vào nhà lẩy ra hàng thúng quần áo ướt đẫm. Trời lại nắng gắt, càng về chiều càng nắng hơn. Những vũng nước mưa lầy bùn của những trận mưa trước đã khô cong. Nhưng trên mặt đường vẫn đầy nước, có chỗ chảy thành dòng như máng nước mưa. Nước đã ngấm qua các con trạch bên đường chảy vào ngày càng nhiều,  nhưng vẫn là nước trong chứng tỏ là nước ngấm rất chậm và ít nên chưa cuốn theo đất, chỉ qua các kẻ hở rất nhỏ. Có người lo quá hoá quẩn, dỡ ngói nhà rồi cho lợn lên thuyền chở đi gửi trong khi đồ đạc thì chẳng cứu được gì. Mà bản thân thì cứ ngồi trơ trơ trên nóc nhà giữa bể nước cuồn cuộn. Bà cụ sinh ra chồng chị Tửu đã ngót 80 tuổi bảo chưa  năm nào nước to như năm nay. Các nhà hàng xóm trong đê đều chuẩn bị chạy nước, chặt hết chuối đóng bè, lỡ có làm sao cứ cho lũ trẻ lên bè đã.

Sáng nay, em Thân nói có lệnh huy động toàn thể cán bộ công nhân viên chức nhà nước tập trung tại trụ sở từ 5 giờ sáng để sẵn sàng chờ lệnh cứu đê Hà Nội, yêu cầu nhân dân Thủ đô chuẩn bị lương thực, v.v… đề phòng tình huống xấu nhất. Cô Tiến vợ anh Nguyễn Huy Sính ở nhà ngoài cho biết đê Thường Tín quê cô vỡ rồi… Trời vẫn nắng, mây trắng mỏng bay nhanh trên nền trời xanh ngắt.

8 giờ ngày 22/8 đã tận tai nghe hai lần lệnh của ủy ban phòng chống lụt bão. Lệnh nhấn mạnh, trật tự đường phố  phải được giữ vững, hạn chế đi lại trên đường, tạm đình chỉ mọi hoạt động văn hóa vui chơi giải trí. Trẻ em không được ra đường.

Chiều 25/8, nước đã xuống khá nhiều, khoảng 2m gì đó. Cảng và nhân dân ngoài đê đang cọ rửa nhà, thu dọn chuẩn bị trở về. Tuy vậy, các lực lượng chống lụt vẫn củng cố đê, phá những chỗ đắp vội đắp dối mấy hôm trước nước lên nhanh quá, nay đắp lại cho thật đúng kỹ thuật. Xe ô tô chở bia hơi lại ra bờ sông bán lẻ phục vụ chống lụt.

Như vậy là đợt lụt này chỉ đúng có năm ngày. Chỉ năm ngày thôi mà đã tàn phá cả những cơ ngơi cả đời người mới tạo dựng được. Đê Gia Lâm vỡ các xã Trung Màu, Phù Đổng đều ngập cả. Lại là những nơi đông bộ đội thanh niên xung phong thương binh an dưỡng.

Sáng nay, đang dọn dẹp, thấy mưa nhỏ thôi mà người dân đều lạnh cả gáy sợ nước lại lên to. Trên đường về, thấy ở tường các nhà dọc đường có dán rất nhiều chỉ thị đặc biệt của Thủ tướng chính phủ về việc bảo vệ đê Hà Nội chống lũ lụt. Nhưng sinh hoạt thường lệ đã trở lại thành phố. Các xe con chở rau vào bán ở chợ, tiểu thương cũng không còn hét giá trên trời nữa. Tình cờ, gặp Nguyễn Văn Quảng ở xí nghiệp Nam Thắng láng giềng với cảng mình đang canh đê. Quảng hỏi mình có ý định viết gì không. Chắc đây lại là câu hỏi của nhóm ba người Quảng, Hải, Thái mê viết hay tìm gặp mình. Bèn đáp chỉ sợ không viết được. Lại hỏi vì sao. Đáp vì dốt quá. Cậu ta còn cố gạn thêm xem còn vì gì nữa không. Mình giữ nguyên ý kiến, rồi nói là nếu như tôi thấy mình chưa thể góp được một tiếng nói mới thì tôi chưa viết. Vì đã có 100 bài viết tầm thường rồi làm người đọc hằng ngày phải bận mắt thì việc gì tôi phải đóng góp bài thứ 101. Tôi chỉ quyết tâm đạt được cuộc sống thật trong sạch giữa lòng nhân dân, ghi nhận tất cả những gì nhân dân mong muốn, cảm động tin tưởng.

Chiều qua, anh Lê Văn Lâm, cán bộ nông trường Mộc Châu nghỉ tạm ở nhà mình để đi khám bệnh. Vóc người to cao, đen trùi trũi. Trước có bị lao sau khỏi, tưởng đã lành hẳn nên ít để ý. Làm việc khỏe, rượu ai mời cũng uống còn mời lại. Thuốc lá cũng hút luôn miệng vì Mộc Châu lạnh. Gần dây, vợ lên, phải lo dựng nhà đúng lúc công tác nhiều lại ho ra máu. Rất có thể phải nằm lâu dài ở bệnh viện A. Mình coi đây là một lời cảnh cáo nghiêm khắc với mình, từng ho ra máu nhiều từ những năm đầu 1960. Không muốn lấy vợ. Muốn dành cả đời mình để làm việc, làm việc và làm việc. Tài hèn, sức mọn, chỉ có một tấm lòng thành thôi thì vị tất có hy sinh cả cuộc đời sẽ làm được gì có ích cho nhân dân, đất nước. Từ ngày hiểu ra, cuộc đời mình đâu còn là của riêng mình nữa.

Bỗng nhớ tới cô bạn nhỏ mê sách. Rồi cô cũng đến khổ thôi, chỉ vì không chịu yên phận sống như những người con gái khác.

Trời mát. Mây trắng phủ kín bầu trời.

Luong thuc ban in roneo

Ngày 27/8, mưa nhỏ, nước sông lại lên. Máy bay ta vẫn tiếp tục đi thả bánh mì xuống các vùng lụt nặng để cứu đói. Nhiều người nhịn đói khát ngay trên nóc nhà mình. Thế mà vẫn có bọn người khỏe mạnh đi thuyền nan chèo nhanh đi cứu lợn xổng chuồng của các gia đình bị lụt để giết đem bán ở ngay vệ đường. Nghe nói Hải Dương vẫn ngập cả tỉnh, ở khu vực Yên Viên, vớt được đến 17 xác công an áo vàng. Công tác cứu dân vẫn tiến hành khẩn trương bằng tàu bay ca nô cùng đủ mọi phương tiện thô sơ. Lại có lệnh huy động đi hộ đê. Mình quị hẳn, phải nằm nhà, uống thuốc xông và đọc sách. Sốt ruột quá, số sách mới cứu được hôm qua phơi phóng đã hơi khô sẽ lại bị mưa ướt mất. Đấy là sách dành cho giáo viên, chuẩn bị năm học mới. 30/8 thì cứu xong sách, lại đem phơi. Mặc dù nước tiếp tục lên. Càng ngày càng nghe nhiều tin thiệt hại về người và của do lũ lụt gây ra. Chiều nay, máy bay bà già và bốn cánh quạt bay suốt. Những người chống lụt ở bờ sông Hồng cho biết đó là máy bay đi thả bánh mì đựng trong túi ni lông, kèm theo là cái giấy nhỏ in rônêô và một lá thư của Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi đồng bào bị nạn. Các khu phố ở nội thành đang quyên quần áo, đồ gia dụng gửi đồng bào bị lụt.

Sau một ngày mệt nhọc cứu sách, mình đến 11 Ngô Văn Sở tìm cô bạn nhỏ mê sách cho tâm hồn thư thái. Tôi đùa: dịp này những người thích lụt như cô được một phen thú nhé. Tôi định đến dẫn đi thăm bà con bị lụt một chuyến để nghe họ kể xem lụt thích như thế nào. Cô cười rất chân thật: không bây giờ thì không dám thích lụt nữa rồi. Mà sao lâu lắm rồi anh mới đến đây. Có lẽ đến một năm cơ đấy… Đúng là suốt cả tháng lụt tôi không ghé thăm cô. Không ngờ tháng ấy dài đến thế! Khi ra về, tôi hẹn sẽ tặng cô quyển Một anh hùng thời đại của Lecmantốp để thưởng vì đã không thích lụt nữa.

Sáng 1/9/1971 nghe đài đọc xã luận báo Nhân Dân mở đầu bằng câu Nước đã rút… Nước có rút thật, nhưng rất chậm, ở đê vẫn tiếp tục đắp thêm và củng cố những chỗ đã đắp. Cả ngày hôm nay, các hợp tác xã điện, kim khí đều đan rọ bỏ đá chống lụt. Hiện giờ, vườn hoa, đường phố rất nhiều nơi mắc đèn điện rất sáng, tiếp tục đan rọ dây thép to. Cuộc chiến đấu chống lũ lụt vẫn tiếp diễn. Đoàn Di cho biết mất 50 ngàn mẫu lúa. Tình cờ ghé hiệu sách, gặp anh Vũ Ngọc Tuyền. Anh là chỗ quen biết với các cô bán sách nên mua dễ dàng cho mình hai cuốn Pie đệ nhất (tập I) của A.Tôn-xTôi. Tối, mình đem đến cho cô bạn nhỏ một cuốn kèm cuốn của Lecmantốp để thưởng như đã hẹn. Nhưng không gặp, đành gửi bạn cùng phòng. Ra đến cổng mới gặp cô đi làm về. Mắt đen to và lông mày rất rậm.

Mồng hai tháng chín năm nay không nghỉ, không tổ chức vui chơi, các cơ quan, xí nghiệp không thắp đèn trang trí để tiết kiệm điện. Những quyết định lạ đời, trái lệ thường như thế lại được toàn dân cho là phải, là tất nhiên.

Sáng nay, một máy xúc đã ủi bằng con trạch đắp ngang đường vào cổng cảng, lối ra sông. Thế là ta đã thắng trận lụt khủng khiếp, sẽ chẳng ai quên.

Chủ nhật 5/9, đã đọc xong Pie đệ nhất (tập 1), ba anh em Đại, Thành, Thân cùng thống nhất là từ nay sẽ sống theo kiểu Đức cả tuần làm việc, học hành quần quật để tối thứ bảy thì nghỉ ngơi, vui chơi, ngày chủ nhật ăn ngon, nghỉ ngơi và lao động chân tay. Điều cuối này mình thêm, khác hẳn kiểu Đức.

Hôm nay đã làm xong một tầng nữa của… chuồng gà. Bây giờ lo học để tối còn Tử viết, Thi vân, đi học chữ nho.

Hôm nọ gặp bạn Lê Thế Long, Long trách ít lại chơi còn chê là lười viết. Có lẽ lười viết mà mình đã cùn đi nhiều, không hiểu đã gỉ như cái cày bỏ xó của La Fontaine chưa. Mình đã hẹn với Long là mỗi tuần sẽ gặp nhau một tối cùng bàn bạc về đề tài, khi viết xong sẽ cùng xem lại sửa chữa. Long có nhiều mối ở các báo thiếu nhi và đã tiêu thụ cho mình được một số bài ngắn.

Tối 17/9, trời đang mưa tầm tã, như giông, như bão rớt. Thân đi học, Nhàn đi đắp đê thế là bị ướt cả. Còn mình thì nằm nhà sốt nhẹ. Mình biết lý do của cơn sốt này. Hôm qua không sốt, nhưng hôm nay buổi trưa phải chủ trì một cuộc họp, chiều lại lên khu và tạt qua tòa soạn báo Nhân Dân do Ngô Lê Dân, bạn bán báo cũ nhắn.

Dân cho biết anh Thép Mới đã ra Bắc được mười hôm, nhưng còn an dưỡng và thuộc diện trung ương quản lý, chưa biết sẽ về đâu. Mình gợiNgo Le Dan 2 ý Dân là anh em nên đến gặp anh, sắp đến ngày 19/11 là ngày đầu chúng mình bắt đầu vào đời bằng nghề bán báo… Mau thật, đã 19 năm rồi. Mình cũng tâm sự với bạn là lâu nay lãng phí nhiều năng lực quá. Làm nhiều, học nhiều mà vẫn thấy còn có thể làm được nhiều hơn. Tóm lại là khá bế tắc. Muốn được những người hiểu và có kinh nghiệm góp ý cho, do đó mong gặp anh và các bạn cũ. Dân còn góp ý về việc vợ con. Mình đành phải kể sơ qua về mối tình đầu lẩm cẩm không đi đến đâu và nói ra điều mình nghĩ lâu nay: chưa nên lấy vợ, vì chưa phải là con người hoàn chỉnh, tất cả còn đang ở giai đoạn phát triển. Ai yêu mình bây giờ vị tất sau này sẽ còn yêu mình. Mình có yêu ai bây giờ vị tất sau này vẫn cứ yêu người ta mãi mãi. Hơn nữa, không nên làm khổ bất cứ ai bằng cách trói buộc đời họ vào cuộc đời nặng nề  của mình. Một mình mình sẽ chịu đựng được tất cả dễ dàng hơn, sẽ cứ vẫn vươn lên, vươn lên mãi.

Cơn sốt buổi chiều đang buộc mình phải nằm nghỉ. Hôm nay bận, chưa tiêm Strepto được. Mấy ai gặp được một Hứa Quảng Bình như Lỗ Tấn.

Sáng 22/9, em Nhàn đi Mộc Châu mang theo cháu Ánh Hồng con thứ anh Đại để chuẩn bị cho chị Thủy đi mổ. Mình bàn với Thân, Nhàn sẽ thắt lưng buộc bụng hơn nữa, ai cũng cố gắng làm thêm nghề phụ để cắt hẳn phần đóng góp của anh Đại.

Mấy hôm nay, trời nắng đẹp, gió quẩn rất nhiều, nhưng ngay cả những đám mây mỏng trên trời cũng không di động chút nào. Bây giờ mới thật là mùa thu. Đêm ngủ ngon. Về sáng đã phải đắp chăn đơn rồi. Tối hôm qua, hôm nay và sáng mai, đại hội công nhân viên chức bất thường của Cảng họp. Bộ Giao thông vận tải đã công bố bản báo cáo kiểm tra các vụ tham ô ăn cắp. Thật ra cuộc đấu tranh rộng lớn bây giờ mới thật sự bắt đầu… Toàn cảng bây giờ vẫn bao trùm trong một không khí uể oải, không ai muốn làm việc, chỗ nào cũng túm năm tụm ba bàn tán, tranh cãi. Một anh công nhân bị bệnh thần kinh cứ đi đi lại lại trước phòng làm việc của bộ tứ Cảng nói rất nhiều lần câu Đánh gục mặt chúng nó xuống. Chỗ nào cũng đầy bụi than, bụi phù sa, chỉ chờ chút gió là bay lên mù mịt. Máy phóng thanh bị ẩm trong thời gian lụt, nay đang còn sửa chữa, các loa đều im ắng. Cảng im lìm như sắp chết… Những ngày khám bệnh, người đến khám rất đông, quá đông. Số rất lớn, không có bệnh, nhưng chán nản không muốn làm việc nên thác bệnh xin nghỉ cho phải phép… Đang có dịch đau mắt đỏ mà y tế thì hết thuốc phòng và hoàn toàn không có bông. Tối 20, bắt đầu năm học mới, hai lớp 7 chỉ có khoảng 10 người. Người học đến lẻ tẻ như chẳng ai đến để học cả.

Mình vẫn sốt, vẫn đi làm, đi học, vẫn phải lo từ ngọn rau, giọt dầu, khâu vá quần áo, dọn dẹp nhà cửa. Thế mà vui. Vì cuộc đời thật vốn như thế.

Sáng 24/9/1971, Đại hội công nhân viên chức bất thường Cảng Hà Nội đang họp, đại biểu đang tranh nhau phát biểu thì ông Điệt thứ trưởng Bộ xuống dự. Như được tiếp thêm sức mạnh quần chúng công nhân cán bộ càng hăng hái đứng lên vạch mặt bọn tham ô ăn cắp có chức có quyền. Độc đáo nhất là trường hợp bác Nguyễn Văn Lượng chột mắt. Bác là công nhân bốc xếp lâu năm, mới học hết lớp hai, đọc không thông viết chưa thạo. Bác được bầu làm ủy viên Ban chấp hành công đoàn Cảng, thư ký công đoàn đại đội Nguyễn Văn Bé tức đội 3 trước đây. Bọn lũng đoạn Cảng đưa bác lên chủ tịch đoàn để làm vì: họ thừa biết tính bác vốn hiền lành, nhút nhát, hay xuê xoa dĩ hòa vi quý. Nhưng, sáng nay chính từ chủ tịch đoàn này bác Lượng đã đứng lên tố cáo tội ác của chúng với quần chúng lao động Cảng từ nhiều năm nay. Đúng là hòn đất mà biết nói năng… Công nhân vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt từng lời bác Lượng nói. Bác lúng túng im lặng ngồi xuống giữa tiếng vỗ tay rầm rộ. Trưa về cùng đường với bác phó giám đốc Nguyễn Văn Tuân và anh Trịnh xưởng phó xưởng sửa chữa, trò chuyện rất vui. Khí thế quần chúng khá lắm. Những kẻ cầm đầu như giám đốc B., phó giám đốc N., T. đã bị vạch mặt, thất bại thảm hại. Chiều nay đại hội sẽ thông qua một quyết nghị hết sức quan trọng, mở đường đến thắng lợi hoàn toàn. Tối nay, bọn chúng tha hồ cắn xé nhau. Còn quần chúng sẽ vui mừng đón quyết nghị của đại hội. Một giai đoạn mới sẽ bắt đầu ở Cảng Hà Nội. Mình vui quá, cũng tìm người chia sẻ. Lại đến nhà cô bạn nhỏ mê sách. Định bụng báo tin vui xong là về ngay để bác già còn đi họp phụ lão. Nhưng vừa gặp, cô bạn trách ngay anh lâu quá không đến, hôm nay có ngồi được lâu không. Rồi đem rất nhiều bánh bít qui và nước ra mời. Hơn một giờ sau mới về nhà. Anh thấy không, những người phụ nữ viết văn hình như đều có một trái tim cứng rắn, cứng rắn hơn cả đàn ông nữa kia. Như Panova Nicôliêva và nhất là Đêgớc, cứng rắn đến lạnh lùng. Cô tự nhận là cứng rắn à? Thà thế còn hơn là thích thú với sự yếu mềm của mình.

Có một cô bạn nhỏ như vậy thật là thú vị, tất nhiên không phải khi nào cũng dễ chịu cả. Cô khác người quá. Hai người cùng khác người thường lại khó hòa hợp với nhau, rất khó chung sống hòa bình…

Cơn bão số 12 đã ảnh hưởng đến Hà Nội, mưa tầm tã, gió, trời trở lạnh. Mình đau tất cả các khớp dữ dội. Sao mà con người ta có lắm khớp thế. Cái xương sống rất dài của mình toàn khớp là khớp.

Mưa rất to, nhưng các lớp vẫn học được. Học viên đông hơn hôm khai giảng nhiều. Học hào hứng lắm. Mình giảng một tiết địa, môn học anh chị em rất ham thích, cứ muốn học thêm, mặc dù đã hết chương trình. Tan học, mưa dữ. Chân càng đau, đành đi bộ về ngủ ở buồng Nguyễn Tiến Chung. Tấm ni lông phòng thân của tôi ngắn quá, gió sông lại mạnh, áo quần ướt gần hết, mỗi bên ủng cũng chứa đến lít nước mưa. Suốt tối và đêm qua khốn khổ vì khớp. Sáng dậy, về nhà ngay, thay xong quần áo là nằm vật ra giường. Bác già mua cho cháo nóng. Cháu Ngọc đun nước pha trà, một lúc mới hồi.

Uống Salamid, nhất là Prednisolonc, rất hiệu nghiệm.

Bệnh tật nhắc mình phải tập trung toàn bộ tinh lực để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đời mình. Không được lãng phí dù chỉ là một hơi thở. Sáng 6/10, đi chiếu điện, rồi lại chụp điện, ngày 9 mới có kết quả, nghe mà hoàn toàn dửng dưng, làm sao cũng chẳng làm sao, dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.

Ngày 12/10, kết quả chụp điện không xấu vẫn là do lao màng phổi. Bác sĩ dặn những khi trở trời anh sẽ vẫn bị đau mãi thôi. Còn khỏe thì chẳng bao giờ khỏe đâu. Khi nào mệt quá thì anh nghỉ…

Nhớ lời thơ Tư Mã Thiên Núi cao ta trông, đường rộng ta đi / Tuy đích chưa đến, nhưng lòng hướng về.

Vừa thi xong khóa học Pháp văn 6 năm, tự cho phép nghỉ ngơi, đạp xe lên Sơn Tây thăm Vũ Văn Chỉ, chú em thân thiết của mình. Tối thứ bảy đi, trưa chủ nhật về. Mừng là vẫn tìm được Chỉ, vẫn chân thành chất phác như xưa, chưa đến nỗi tệ như bà chị ở Bò Đái Yên Bái nói với mình dạo nào. Có điều lạ là lần này toàn gọi mình là anh, không mày tao như trước. Tìm lại được Chỉ, không mất một người anh em, có lẽ đó là điều vui nhất trong năm nay.

Giữa tháng 11, nhà mình toàn người ốm. Mẹ ốm, cháu Ánh Hồng bé xíu ốm nặng, Ánh NPham Duy Phunggọc lớn hơn ốm nhẹ, chị Thủy mổ xong đi an dưỡng, Nhàn cúm, Thân lao màng phổi bắt đầu vào bệnh viện. Anh Đại nghỉ làm vào viện nằm trông Ánh Hồng. Ngày ngày mình đưa cơm vào cho anh, mang quần áo về nhà giặt, đón cháu Hải đi học về. Bận và càng túng tiền. Ngày 26/11 Ánh Hồng và chị Thủy mới ra viện. Hải cũng nằm viện một tuần rồi. Mẹ và bác già cũng ốm nằm nhà và vẫn làm việc. Chỉ còn mình là …. người khỏe. Chiều nay sẽ đưa cái ăn vào cho Thân, rồi cho Nhàn. Bất ngờ, trưa Phạm Duy Phùng ghé nhà báo tối nay lại nhà anh Thép Mới họp mặt. Thứ tư tuần trước bọn bán báo chúng mình đã tập hợp đến thăm anh nhưng anh đi vắng. Sáng thứ ba 22/11 đi làm về mình tình cờ ghé nhà phố Nguyễn Lai Thạch gần Lò Lợn thì lại gặp anh. Anh hốc hác, má hóp, đen xạm, mắt như mắt voi vẫn chăm chú vui vẻ nghe mình kể cuộc sống công tác những năm qua, còn khen Cái tốt nhất là những năm qua mày đã đứng vững đã vững vàng trong cuộc sống… Bây giờ, tao chưa về cơ quan chưa nắm cái gì cả, nhưng không ai nỡ để lãng phí những khả năng có ích. Anh bảo mình tiếp tục trau giồi tiếng Pháp, ra sức kiên trì học Hán văn… Đừng học Nga văn như đã định. Chắc là anh có ý định giúp mình, không muốn mình phân tán sức lực. Mình nghĩ rất cảm ơn anh nhưng em sẽ vẫn cứ học Nga văn, còn sự giúp đỡ cụ thể trước mắt của anh, chưa chắc em đã nên nhận. Dạo ấy mình tự tin quá đáng như thế!

Tối họp mặt ở nhà anh Thép Mới. Anh gầy, đen. Cả bọn quây quanh bàn trà . Chị Cung Kim Châu nhỏ nhắn đun nước bằng bếp dầu có bình dầu Thep moithủy tinh cao bằng mặt bếp. Các bạn gom tiền, miễn cho mình dân nghèo ven sông, nhờ chị Lân vợ ông Hà Xuân Trường là cán bộ cao cấp mua được nhiều bánh kẹo ngon mình chưa được ăn bao giờ. Cũng như lần 10 năm ở nhà Nguyễn Văn Bào, mình chỉ ăn, uống, nghe và gần như không nói gì, vì những điều cần nói đã nói cả với anh Thép Mới rồi. Từ hồi 18 tuổi, làm bí thư chi đoàn, hầu như ngày nào mình cũng gặp anh ít nhất một lần. Mình bảo gặp may, vào đời bằng việc bán báo với học sinh Hà Nội quả là một cuộc cọ sát mạnh. Làm bật ra mọi thói hư tật xấu của từng người. May là đụng rồi lại được đàn anh có tâm, có tầm phân tích chỉ bảo cho từ đường đi nước bước chập chững vào đời, thì còn gì quí hơn. Lắm hôm tôi đến số 10 Ngô Văn Sở, anh bảo chị Châu hôm nay cậu rửa bát nhé, tớ phải đi với cậu này. Rồi vào nhà lấy cái quần treo trên mắc mặc vội. Không là đã lâu.

Tối 30/11, ngồi tính việc chi tiêu tháng 12, nát cả óc, tiền ăn còn không đủ lấy đâu ra tiền mua thuốc, may mặc và cho cháu Hải đi học trường Mầm Non. Đã ghé trường Hải hỏi thì biết là từ tháng tới mỗi tháng sẽ phải nộp 13 đồng và gạo. Hôm họp ở nhà anh Thép Mới xong Đỗ Quảng về cùng đường gợi ý việc viết tin cho báo Nhân Dân để kiếm tiền. Thân sẽ còn nằm viện khoảng chín tháng nữa. Mình nhận gánh nặng gia đình nhưng không biết có gánh nổi không. Đọc nốt quyển Madame Bovary (Bà Bôvary) mới mượn được này xong sẽ lao vào chiến dịch… viết để kiếm tiền. Bắt đâu sự nghiệp văn chương như thế thật tội nghiệp. Biết làm sao! Viết hai mẩu bàn chuyện xây dựng nếp sống mới gửi báo Hà Nội. Sẽ viết cho Lao Động. Tất nhiên cả Nhân Dân, có tay trong mà.

Ngày 4/12, thử máu, mới lấy 1,5cc đã ngất, cấp cứu. 6/12, kết quả Bilirubin 11,996mg/l. Cho nghỉ năm ngày.

Tối 7/12, đến để vĩnh biệt cô bạn nhỏ. Cô vui vẻ nói rất nhiều điều vớ vẩn như mọi khi, vì tưởng sẽ còn nhiều dịp gặp gỡ. Cô còn quá trẻ, còn đùa với cuộc đời, chưa hiểu gì cả.

Cái đau, dù lớn đến đâu mình cũng có thể chịu đựng được một mình, không cần san sẻ với ai. Chỉ khổ nhất khi thấy người khác vì mình mà khổ. Nhất là người mình yêu quí. Thế thôi. Ngày 10/12 cậu Khuê biên cho một lá thư và kê cho một đơn thuốc. Thư viết Vì sức khỏe có hạn cho nên cần tránh mọi thái quá. Đơn thì ghi: hạn chế đi lại nhiều. Kiêng mỡ. Mình sẽ kiêng nhịn tất cả miễn là được sống để làm việc. Sáng nay lại tiếp tục đưa cháu Hải đi học trường Mầm Non. Dù sao cũng phải bảo vệ, chăm sóc những mầm non của đất nước chứ.

Thế là hết năm ngày nghỉ. Định làm mấy việc đều không làm được, đúng là nghỉ ốm. Thân vừa ghé về nhà, khỏe ra, cứ ngạc nhiên mãi là tại sao anh không bị mà lại là em. Em chưa biết gì hết. Anh Đại chuyển thư cậu Khuê mới biết mình còn nguyên bệnh cũ mà còn thêm một bệnh mới về gan.

Sáng nay, 13/12 ra hiệu sách gặp bạn Lê Thế Long. Bạn nói vẫn khỏe nhưng mặt vêu ra, ở hàng ria mép hơi dài đã lởm chởm nhiều sợi bạc. Long cho biết cộng tác chặt chẽ với báo Thiếu niên Tiền Phong, đăng cả truyện ngắn, câu đố.. Mình nhận viết một bài về ảo thuật, sẽ đưa Long ngay ngày mai. Trưa 12/12, ở Cảng đã chính thức công bố kỷ luật những kẻ tham ô ăn cắp chủ yếu, kể cả những người bao che cho họ. Cuộc đấu tranh quyết liệt hơn hai năm qua đã thu được kết quả bước đầu. Một cuộc cách mạng mới xây dựng sẽ bắt đầu. Sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì dù sao cuộc cách mạng vừa qua cũng chỉ là phá bỏ cái cũ, có tính phá hoại, mà phá thì bao giờ cũng dễ hơn xây dựng nhiều.

Chiều 24/12, bà cô em bố mình lên Mộc Châu giúp em Nhàn đã đưa cháu Hà (tức Minh Tuấn) hai tuổi về Hà Nội tránh rét. Ngày 25, đưa các cháu và bà cô đến thăm anh Đại, cậu Khuê em Thân. Đến nhà cậu Khuê vớ được tạp chí Pif đọc vội cách làm máy chiếu phim đơn giản, để có cái viết nộp Long kiếm tiền. Một tối, mình đi tìm tài liệu, trước khi đi bế cháu lên để Hà nghiêng đầu cho mình hôn vào cái má đỏ hồng phinh phính của cháu. Cháu hỏi bác đi mua kẹo à. Mình định nói là không phải nhưng rồi lại nói: Đúng là đi để rồi mua kẹo cho cháu. Cả nhà và Nhàn đều hiểu câu nói đó.

Báo ngày 31/12/1971 đăng tin giặc Mỹ lại ném bom Thanh Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) nơi mình sống năm 1968 mà Hà Nội thì thanh bình quá. Quần áo, vải vóc là những đề tài nhiều người bàn tán nhất, cuối năm rồi còn gì.

Mình ho nhiều, mệt quá chừng, chỉ làm được những việc lặt vặt trong nhà. Chiều nay, em Thân sẽ ra viện chuẩn bị đi an dưỡng.

Đã gặp anh Thép Mới, đã được anh và bạn bè đồng đội cũ góp nhiều ý kiến hay, cũng biết rõ tình hình sức khỏe và hoàn cảnh kinh tế, sức khỏe cả gia đình, thế là đủ dữ liệu để quyết định hướng đi tới. Nhưng đi đâu, khi nào, bằng cách nào, đến bây giờ vẫn chưa rõ. Chỉ biết mình đã sống tận tình tận nghĩa với Cảng. Bây giờ cần đến nơi có thể đóng góp được nhiều hơn cho nhân dân, cho Tổ quốc với những năng lực đã học tập tích lũy và thử thách suốt những năm qua. Có thể yên tâm ra đi mà vẫn giữ liên lạc mật thiết với cảng thân yêu, nơi đã gắn bó với cả một đoạn đời thanh xuân đầy kỷ niệm trong cuộc sống mình.

Ngày 11/5/2019 tại thành phố Hồ Chí Minh.

P.T.

Vì sao Phạm Khuê viết được ngay bức thư gửi cụ Hồ?

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:07 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 2 tháng 6 năm 2022.

VÌ SAO PHẠM KHUÊ VIẾT ĐƯỢC NGAY BỨC THƯ GỬI CỤ HỒ?

Blog PhamTon

Sau khi chúng tôi đưa lên blog bài của Dã Thảo Ngay trước ngày Quốc khánh đầu tiên, Hồ Chủ tịch đã tiếp hai con gái học giả Phạm Quỳnh, trong đó có chi tiết: “Bức thư mà hai bà đưa cho Hồ Chủ tịch là do Phạm Khuê (…) chấp bút viết theo ý của ba chị em, sau khi nghe tin cha bị bắt ở Huế”, nhiều bạn đọc cả trong và ngoài nước đã hỏi vì sao Phạm Khuê 20 tuổi, sinh viên trường Y ở Hà Nội lại có thể biết rõ và viết được ngay bức thư gửi Hồ Chủ tịch nói về việc cha bị bắt ở Huế, để hai chị kịp đưa lên Hồ Chủ tịch nếu được Người nhận tiếp. Vì Phạm Quỳnh bị bắt trưa 23/8 mà ngày hai bà được gặp Cụ Hồ lại là ngày 31/8/1945, chỉ vẻn vẹn một tuần. Mà còn phải viết trước, vì chưa biết khi nào được tiếp. Thời gian gấp gáp như vậy, trong khi hồi đó, giao thông liên lạc trong nước ta còn rất lạc hậu, sao có thể nhanh như vậy được. Tóm lại, sự thật có phải như đã viết không?…

Chúng tôi cảm động trước sự quan tâm của bạn đọc đến mức chú ý cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong các bài viết trên blog. Chính vì thế, sau khi được hỏi, chúng tôi bắt tay ngay vào việc rà soát lại các tư liệu gốc (đặc biệt là tư liệu 10 trang viết tay của Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 gửi Tuyên huấn Thừa Thiên Huế và bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nhà của Phạm Tôn đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên –Huế số 3 (56). 2006), gặp gỡ trực tiếp hoặc qua điện thoại với những nhân chứng hoặc người biết rõ sự việc Phạm Quỳnh bị bắt trưa 23/8/1945. Đến nay, đã có thể trình bày vắn tắt với các bạn như sau.

Năm 1945, gia đình Phạm Quỳnh vẫn ở Huế như từ năm 1932 khi ông vào Huế làm quan. Riêng Phạm Khuê đang học đại học Y khoa Hà Nội cho nên ra sống ở Hà Nội tại nhà số 5 phố Hàng Da với gia đình bà chị cả Phạm Thị Giá cùng chồng là giáo sư Tôn Thất Bình, hiệu trưởng Trường Thăng Long. Nhưng khi Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ thì Phạm Khuê lại ở Huế vì đang được nghỉ hè. Và đúng ngày 23/8 định mệnh ấy, anh có mặt tại Huế. Nhưng khi cha bị bắt thì …  lại không có mặt ở nhà! Vì từ sáng sớm hôm ấy, nghe có tin “cách mạng sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Huế, mời đông đảo đồng bào tham dự”, thì Phạm Quỳnh đã bảo các con trai lớn và người giúp việc trẻ trong nhà chuẩn bị tham gia, lại dặn mua sẵn cờ đỏ sao vàng nhỏ cầm khi đi mít tinh. Mấy hôm trước, biết tin Cách Mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội, Phạm Quỳnh đã bảo người nhà, vợ và các con gái lấy hết vải đỏ, vải vàng nhà hiện có, hạ cả các màn bàn thờ hai màu đó để may gấp cờ đỏ sao vàng treo khắp mặt tiền nhà. Ông bảo “Nước ta độc lập rồi, thế là việc đáng mừng nhất”. Và chiều hôm ấy, theo lời cha, Phạm Khuê, Phạm Tuyên và đám người nhà trai trẻ đều cầm cờ đỏ sao vàng đến sân vận động dự cuộc mít tinh do Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh tổ chức. Ở nhà, chỉ còn vợ chồng Phạm Quỳnh, vợ chồng cô Phạm Thị Ngoạn, cô Phạm Thị Hoàn và mấy em gái. Phạm Tuân, con trai út của Phạm Quỳnh và mấy đứa cháu nội, ngoại thì chơi tha thẩn ở sân nhà. Khi Phạm Quỳnh bị bắt, các con ông chứng kiến chỉ có hai cô Ngoạn, Hoàn và em trai Phạm Tuân chín tuổi. Khám xét nhà, ngoài một ít sách vở, còn mấy khẩu súng săn của Phạm Khuê, cũng bị tịch thu nốt.

Phạm Khuê vốn bản tính hiền lành, nhưng lại thích săn bắn và bắn khá giỏi. Lần bọn con, cháu trai và người nhà kéo nhau đi săn gần Huế, Phạm Khuê đã bắn được một con lợn lòi lớn, nặng đến nỗi khi khiêng lên để chở về thì đò suýt đắm, mọi người đều phải lên bờ đi bộ, chỉ Phạm Khuê và người lái được ngồi đò.

Chiều hôm ấy, Phạm Khuê dự mít tinh và đi tuần hành về đến nhà, tay vẫn còn cầm cờ đỏ sao vàng thì chị và các em cho biết cha và anh rể là chồng bà Ngoạn đã bị bắt. “Người tính hiền lành, thường hay cục”, Phạm Khuê chạy vội vào nhà, đến ngay tủ súng săn của mình, thấy tủ bị niêm phong, thì đấm vỡ kính, chảy cả máu tay. Nhưng tủ trống rỗng … Sau này, vào những năm 90 thế kỷ trước, em út Phạm Tuân từ Mỹ về thăm có nhắc lại chuyện này trước mặt cả gia đình Phạm Khuê. Ông mỉm cười, lắc đầu rồi nói: “Nếu lúc ấy còn súng thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra và cuộc đời anh sẽ ra sao…” Bây giờ, ông đã là giáo sư đầu ngành lão học, viên trưởng Viện Lão khoa, chủ tịch Hội người cao tuổi, đại biểu Quốc hội, Nhà giáo Nhân dân và là Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã mấy mươi năm rồi.

Sau đó, Phạm Khuê lên ngay tàu hỏa ra Hà Nội, báo tin chẳng lành cho gia đình hai chị. Cả nhà cùng bàn để hai chị lớn là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức (là vợ Giáo sư Đặng Vũ Hỷ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I) xin lên gặp Cụ Hồ, mang theo thư do Phạm Khuê chấp bút thảo, theo ý kiến của cả nhà.

Ton That Binh Pham Thi Gia Pham Khue Dang Vu Hy Pham Thi Thuc

Chị cả Phạm Thị Giá, tìm gặp ông Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, em ruột ông Phan Thanh là người quen biết đã lâu, cùng làm việc ở Trường Thăng Long với chồng bà. Từ đó dẫn đến buổi hai bà được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ trưa ngày 31/8/1945, ngay sau khi Người duyệt lại lần cuối bản thảo Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ đọc ngày 2/9/1945, ngày Quốc khánh đầu tiên của nước ta. Người nói: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sau này sẽ được lịch sử đánh giá lại.”

Chính Phạm Khuê từ Huế ra sau khi đã biết rất rõ việc cha bị bắt như thế nào cho nên anh viết ngay được chính xác về sự việc này để hai chị kịp trình lên Cụ Hồ.

Sau thời gian thương thảo với phía Hoa Kỳ về hiệp định hòa bình Việt Nam ở Paris, có lần ông Lê Đức Thọ, trưởng đoàn đàm phán của ta hồi đó đã chọn Giáo sư Phạm Khuê đi cùng sang Paris. Chính ông Lê Đức Thọ đã nói Phạm Khuê có người nhà ở Paris thì nên đi thăm. Và đã tạo điều kiện cho Phạm Khuê gặp chị gái là Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, tác giả luận văn Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong trình Đại học Sorbonne và em gái Phạm Thị Hoàn, cùng chồng là nhạc sĩ tài hoa Lương Ngọc Châu.

Sự thật là như vậy. Giản dị và thật, đúng như… sự thật vậy.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/9/2010.

B.P.T.

.

Tháng Tư 22, 2022

Chuyện kể của một chiến sĩ xe tăng

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 8:37 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 1 tháng 5 năm 2022.

CHUYỆN KỂ CỦA MỘT CHIẾN SĨ XE TĂNG

Dã Thảo

Dã Thảo tôi có một ông em kết nghĩa trẻ hơn mười tuổi. Chú vốn con nhà nông dân Phú Thọ, được tuyển đi học lái cần cẩu to ở nước ngoài, di chuyển bằng xích sắt như xe tăng. Từ đấy, chú ôm mộng làm lính xe tăng. Nhưng, học xong, chú được tuyển về cảng Hà Nội, tất nhiên


là để … lái cần cẩu to.

Đang hồi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, chú tình nguyện xin nhập ngũ. Được chấp nhận, tưởng là sắp bắt đầu cuộc đời lính xe tăng rồi, nhưng ai ngờ, chỉ vì cao, to lại đẹp trai, chú bị… chuyển về đơn vị chuyên phục vụ lễ nghi đón đưa khách quốc tế và các ngày lễ trọng, ăn trắng, mặc trơn, chuyên sống ở Hà Nội. Thời chiến, nhiều người mong mà chẳng được, nhưng chú thì cuộc họp nào cũng xin “nhận khuyết điểm là không yên tâm công tác”, chỉ có một nguyện vọng là được ra mặt trận làm chiến sĩ xe tăng, trực tiếp giết giặc. Cứ thế mãi rồi đơn vị lễ nghi cũng đành chiều. Và chú thành chiến sĩ xe tăng ngay đợt tuyển đầu. Rồi ra trận. Xe tăng của chú là chiếc thứ hai tiến vào dinh Độc Lập lúc hơn 11 giờ trưa ngày 30-4-1975. Hết chiến tranh, chú về quê, cống hiến trọn đời cho các việc ích nước lợi dân, không kể lớn nhỏ, với cấp hàm đại úy.

Tết năm nào tôi cũng viết thiếp chúc Tết gia đình chú. Nhưng chú thì không bao giờ viết. Thay vào đó, là một cuộc gọi điện thoại đường dài Phú Thọ – Sài Gòn, nói thật là lâu. Lá thiếp không thể chứa nổi tình cảm của chú với anh em cũ… Tết Tân Mão 2011, theo lệ cũ, tôi gởi thiếp. Sáng mồng một thì về bên ngoại, họp mặt gia đình, ăn uống đến hơn hai giờ trưa mới về. Vừa mở cửa, đã nghe có tiếng chuông điện thoại. Chú ấy gọi. Và cho biết đây là lần gọi thứ bốn từ sáng đến giờ. Sau lúc hàn huyên thăm hỏi gia đình, chú nói là có chuyện rất vui chỉ chờ dịp này kể cho tôi nghe. Chuyện chú kể đai khái thế này…

Trước Tết, đi ăn cưới, chú ngồi cùng bàn với nhiều vị chức sắc và lão thành cách mạng, có lẫn vài thanh niên nay làm lãnh đạo địa phương. Đến lúc gần tàn tiệc, uống trà nói chuyện tào lao thì chú bỗng nổi hứng, lên tiếng hỏi “Các vị có biết ông Phạm Quỳnh là ai không?” Cả bàn già trẻ dè dặt nhìn ông đại tá một lát rồi mới có một vị lên tiếng: “Phạm Quỳnh thì ai chẳng biết…”. Lại hỏi “Thế ông ấy là người thế nào?…” Đáp ngay: “Phạm Quỳnh là tay sai thực dân Pháp”. Lại hỏi: “Còn gì nữa?”. Lại đáp ngay: “Phạm Quỳnh bán nước…” nhưng có hơi do dự .

Lúc ấy vị đại tá mới nói: “Thế ông có biết Phạm Quỳnh là thủ khoa đầu tiên của Trường Bưởi năm 15 tuổi, rồi đi làm ngay ở Trường Viễn Đông Bác Cổ, chuyên nghiên cứu về văn hóa văn học cổ nước nhà. 24 tuổi là chủ bút tạp chí Nam Phong lớn nhất nước ta. Năm 1922, Phạm Quỳnh sang Pháp dự Đấu xảo thuộc địa, tranh thủ gặp Ng


uyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường… bàn việc nước. Chính Nguyễn Ái Quốc đã “đích thân” chỉ đạo bạn cũ từ hồi đi tàu thủy làm một “bữa cơm Bắc thết khách Bắc” là Phạm Quỳnh. Chính vì thân thiết và hiểu nhau như thế cho nên năm 1945, Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ đã nói với Thứ trưởng Bộ Nội Vụ Hoàng Hữu Nam “vô Huế gặp cụ Phạm, trao thư tôi mời cụ”. Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị bắt, chính Cụ Hồ đã nói “Bất tất nhiên” (không nhất thiết phải làm như thế). Còn khi nghe Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban Cách mạng Thừa Thiên – Huế báo là: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi” thì Người nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!”. Và đến năm 1946, trước phái đoàn ta dự Hội nghị Fontainebleau (Pháp), Bác đã nói: “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì …” Ông Phạm Văn Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…”.

Cả bàn tiệc ngơ ngác, nhất là vị cán bộ nọ. Vị đại úy nói tiếp:

– Người ta như thế, mà ông chỉ biết có hai câu tay sai với bán nước thôi sao… Vậy xin hỏi ông một câu cuối: “Ông có thuộc bài Như có Bác trong ngày đại thắng không?” Vị cán bộ đỏ mặt: “Ông say rồi mới hỏi tôi như thế, cả nước ai cũng thuộc, đến đứa trẻ con cũng thuộc, ai mà mỗi năm chẳng hát chục lần”.

– Vậy ông có biết tác giả Phạm Tuyên chính là con trai cụ Phạm Quỳnh không?

– Ủa, thật vậy sao?… Điều này thì tôi cũng không biết…

– Vậy thì hôm nào rỗi rãi, ông lại tôi chơi, ta nói chuyện, xem sách cho vui. Sách của ông ấy thì nhiều lắm. Ngay ở nước ta, từ năm 2001 đến nay đã in rất nhiều, có quyển như Thượng Chi văn tập dày hơn một nghìn trang, trong ba tập sách Du ký Việt Nam mấy nghìn trang, tính ra ông ấy có hơn một quyển, chẳng thế mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi ông là “người khổng lồ”. Hồi sang Pháp năm 1922, ông đã tự tìm cách lên được diễn đàn Viện Hàn Lâm Pháp để bênh vực dân mình và được cả viện vỗ tay, là điều chưa từng xảy ra ở đấy… Rỗi đến tôi chơi nhé, chứ biết ít như ông mà cứ nói nhiều thì e người ta cười cho đấy!

Đại loại chuyện vui mà ông em kết nghĩa người Phú Thọ muốn làm quà cho tôi ngày mồng một Tết Tân Mão là như vậy. Thật quả là tôi được “lì xì” quá mức dám mơ tưởng.

D. T.

Tháng Ba 26, 2022

Nửa giờ với cựu thủ tướng Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:20 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 1 tháng 4 năm 2022.

NỬA GIỜ VỚI CỰU THỦ TƯỚNG PHẠM QUỲNH

Thanh Tịnh

Lời dẫn của Phạm Tôn: Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan về Huế, vừa gởi cho chúng tôi bài này. Trong Từ điển văn học bộ mới của nhà xuất bản Thế Giới năm 2014, mục từ Thanh Tịnh từ trang 1635-1636 viết:

“(12.XII.1911-17.VII.1988), Nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Các bút danh khác: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trịnh Thuần (sau 1945). Tên thật Trần Văn Ninh. Từ sáu tuổi, được đổi là Trần Thanh Tịnh. Nguyên quán: xóm Gia Lạc, ven sông Hương, ngoại ô Huế. Nguồn văn nghệ dân gian phong phú của Thừa Thiên – Huế đã sớm ảnh hưởng đến ông. Phần lớn thơ văn của ông đều bắt nguồn từ giọng hò câu hát trên sông nước quê hương. Thanh Tịnh được học chữ Nho đến 11 tuổi, rồi tiếp tục học tiểu học và trung học ở Huế.

Khi đi học ông đã ham thích văn chương. Hai nhà văn Pháp nổi tiếng Đôđê và Môpaxăng có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh Tịnh sau này. 1933, đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn làm thơ và cộng tác với các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị… sáng tác đầu tay: Cha làm trâu, con làm ngựa (Thần kinh tạp chí, 1934).

Ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và Sinh, 1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Tập thơ Hận chiến trường (1937) và nhiều bài khác đăng trên các báo ở Huế và Hà Nội mang phong cách lãng mạn đậm nét. Thơ ông, trong những bài tiêu biểu nhất như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm tiếng, Rồi một hôm, Muôn bến… thường mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Thành công hơn cả trong chặng đường sáng tác này là các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) trong đó có nhiều truyện đẹp, trong sáng và gợi cảm.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ. Gia nhập bộ đội 1948, tham gia phụ trách Đoàn kịch Chiến thắng của Bộ Tổng tư lệnh Quân độ nhân dân Việt Nam. Trong kháng chiến, ông khai sinh ra hình thức độc tấu. Nghệ thuật trình diễn độc đáo này rất được phổ biến trong nhân dân. (…)

Từ năm 1954, tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông viết nhiều thơ trữ tình, thơ đả kích, ca dao, độc tấu, nhận xét nhỏ, hồi ký… đăng trên các báo Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Phụ nữ, Tiền phong, Tổ quốc, Thiếu niên tiền phong, v.v… Tác phẩm chính sau cách mạng: Sức mồ hôi (thơ, 1954), Những giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956), Đi từ giữa một mùa sen (truyện thơ, 1973), Thơ ca (tuyển tập, 1980)…Thơ của ông giai đoạn này có sự chuyển biến rõ rệt. Do có nhiều gắn bó với nhân dân, ông phấn đấu “ước gì để lại mùa sau/ Một câu một chữ đậm màu dân gian”. Ông viết nhiều ca dao, một số bài rất quen thuộc với người đọc (Nghe lThanh Tinhời Bác dạy, Sức mồ hôi, Dân no thì linh cũng no…). Mảng thơ trữ tình của giai đoạn này nhìn chung không trội. Ông viết thiếu lắng đọng, tinh tế, trừ một số bài đã kế thừa, phát huy một cách tích cực phong cách lãng mạn, trong phần thành công nhất của chính tác giả trước đây (Nhớ Huế quê tôi, Gặp lại). Truyện thơ Đi giữa một mùa sen gồm tám đoạn, dài non hai ngàn câu, kể về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh từ lúc chào đời đến năm 15 tuổi… đây là một công trình lao động nghệ thuật công phu của Thanh Tịnh. Ông sưu tầm tài liệu và viết trong nhiều năm. Tác phẩm viết dưới hình thức kể chuyện, mang đậm phong cách dân gian và hợp với giọng điệu tâm tình của thơ ông.

Tập truyện ngắn Những giọt nước biển phần lớn gồm những bài ông viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Mỗi truyện như một bài thơ nhỏ, ghi lại hình ảnh những người nông dân bình thường miền xuôi cũng như miền núi, gan dạ một cách hồn nhiên, dung cảm một cách lặng lẽ, hoạt động phục vụ sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm.

Nhìn chung tác phẩm Thanh Tịnh đậm chất trữ tình. Thông qua tâm hồn tác giả hiện thực cuộc sống được phản ánh giản dị mà sâu sắc, không phải chỉ ở bề ngoài, mà ở cái linh hồn sâu kín bên trong. Văn Thanh Tịnh gợi cảm, đằm thắm và trong sáng. Như Thạch Lam nhận xét, tác phẩm của Thanh Tịnh “truyện ngắn nào hay đều có chất thơ và bài thơ nào hay đều có cốt truyện”. Thanh Tịnh mất ở Hà Nội.

Trần Hữu Tá

* Bài sau đây đăng trên Việt Nam Tân báo số 33 ra ngày 2 tháng 5 năm 1945 tức là sau cuộc đảo chính Pháp của Nhật và chính phủ Trần Trọng Kim đã thành lập. Chức vụ cuối cùng Phạm Quỳnh giữ trong triều đình Huế là Thượng Thư Bộ Lại, như chức thủ tướng chính phủ.

Bài này góp thêm một chứng cứ khách quan nữa bác bỏ các luận điệu bịa đặt, vu khống nói rằng Phạm Quỳnh “câu kết với Nhật” hoặc “nằm im chờ Pháp đến giải cứu” hòng phục hồi chức vụ và quyền lợi của các kẻ bán nước như một số người đương thời và hậu thế từng đưa ra để “kết tội ông cho xứng với bản án tử hình mà ông đã phải chịu tháng 9/1945”.

—o0o—

Một buổi chiều nắng nhạt trong biệt thự Hoa Đường gần bờ song An Cựu. Tôi đưa giấy nhờ người nhà đem vào để xin yết kiến. Hai phút sau Phạm Tướng công đã lộ hình trong khung cửa giữa. Mắt nhìn vào mảnh giấy, một lát ông nhìn tôi rồi cười hỏi:

  • Anh Thanh Tịnh đấy à? Thế mà tôi nhìn mãi chữ ký không nhận ra.

Tôi không bỏ dịp tốt:

  • Cụ cho biết cảm tưởng của cụ đối với Nội các mới.

Với nụ cười vẫn giữ luôn trên môi ông nói:

  • Cảm tưởng thì tốt lắm. Tôi rất hoan nghênh Nội các mới. Các vị Bộ trưởng mới, phần nhiều tôi đã biết người biết tiếng cả. Riêng cụ Trần Trọng Kim lại nhiều dây liên lạc đằm thắm hơn. Bạn làng báo cũ với nhau kia mà!
  • Thế bây giờ cụ nhất định về tĩnh dưỡng ở đây?

Một cái nhìn tươi mới tiếp theo sau cái vỗ vai thân mật, Phạm Tướng công nói:

  • Vâng, về ở đây để tiện việc tra cứu những sách vở xưa.

Mấy hôm về đây, tôi chỉ bận sắp lại những tài liệu cũ và mấy bộ sách chữ Hán.

Ông vừa nói vừa dẫn tôi đi xem cái thư viện đặc biệt của ông. Đặc biệt vì đó là một phòng làm việc có gần mười cái tủ sách vây quanh. Trong đó sách lớn có nhỏ có sắp đặt rất thứ tự và bìa thì đóng dấu bạc hay chạy chữ vàng đủ thứ.

Ông đưa cho tôi xem mấy quyển sách Ma doctrine (Học thuyết của tôi – PT chú) của A.Hitler và La tragédie de la Jeunesse allemande (Thảm kịch của tuổi trẻ Đức –  PT chú) của Noth, quyển lịch sử duy tân nước Nhật Bản trong 50 năm đầu bằng chữ Hán, và một tập giấy cắt trong nhật trình Pháp bàn về vấn đề Diến Điện và Đại Đông Á rồi quay nhìn tôi:

  • Đến 54 tuổi tôi mới về được với công việc nghiên cứu thích thú nhất của đời tôi. Đấy anh xem tờ Nam Phong xưa có phải là một cơ quan chính trị đâu. Tôi nghĩ văn hóa là căn bản tinh thần của một chủng tộc, cho nên – là một nhà báo, là nhà học giả – tôi phải theo đuổi đến kỳ cùng. Cho đến sau cùng có vấn đề trực trị xướng lên, tôi mới đưa ra đề nghị Lập hiến. Thế rồi sự tình cờ đưa tôi ra làm chính trị. Biết là không phải con đường chính của mình, tôi cũng phải theo. Rồi mấy mươi năm trong bể hoạn, tôi biết rõ nhân tình thế thái lắm anh ạ!

Biet thu Hoa Duong

Câu “biết rõ nhân tình thế thái lắm” ông dấn từng chữ một rồi đưa dài ra nên nghe có vẻ mỉa mai và chua chát lạ lùng. Ngừng một lát để mơ màng nhìn mấy quyển sách mà chừng ông âu yếm lắm ông nhìn tôi rồi tiếp:

  • Anh còn nhớ ngày chúng tôi qua Pháp (chỉ chuyện Phạm Quỳnh tháp tùng nhà vua Bảo Đại sang Pháp năm 1939 – PT chú) không? Để bàn về chuyện Bắc Kỳ đấy. Nhưng qua bên ấy nhằm lúc các nhà chính trị đi nghỉ mát cả. Thế là không biết bàn với ai. Cho đến lúc được tin ngòi lửa chiến tranh sắp bùng nổ là Hoàng thượng cùng tôi và ba người nữa đáp máy bay về nước.

Tôi nhận thấy trong lời nói sau cùng của ông có vẻ ngao ngán buồn buồn. Tôi tự nhiên sực nhớ đến hai câu thơ của tôi:

Như chàng sứ giả chẳng thành công.

Trở lại môn quan ứa lệ lòng.

Tình cờ mắt ông lại nhìn đến mấy pho Kinh Phật, ông liền nói:

  • Trước kia tôi rất ham nghiên cứu về Phật giáo, trước cả hồi người ta lập Phật Học hội khắp ba kỳ. Vì Khổng giáo là đạo nhập thế, Phật giáo trái ngược lại là đạo xuất thế. Còn Lão Tử lại chuyên về mặt tiêu cực hơn…

Thấy ông đi hơi xa, tôi liền hỏi:

  • Cụ cho biết có phải đức Hoàng thượng muốn lưu cụ lại để lập Viện Hàn lâm Việt Nam không?

Lại nụ cười khi trước hiện ra.

  • Đó chỉ là một tin đồn. Sau ngày phục mạng Hoàng thượng để ra về, tôi không xin thêm điều gì cả. Nhọc lắm anh ạ. Tôi phải tĩnh dưỡng nhiều lắm. Vả lại bây giờ công việc chính trị cần hơn vấn đề văn hóa. Miễn sao bổ dưỡng cho thể chất tráng kiện trước rồi đòi hỏi đến thực phẩm tinh thần sau.

Sau một nụ cười khó hiểu ông lại nói:

  • Chúng tôi bây giờ là những cô đào già, ca Nam ai, Nam bằng nhiều lần quá thành nhàm tai nên không ai muốn nghe nữa. Thời đã mới cần người mới để hát những bài ca mới hơn… Nhưng thôi, bỏ những chuyện viển vông ấy đi, tôi đã hiện nguyên hình là nhà báo thì nói chuyện về báo vui hơn. Lúc nào tờ Việt Nam Tân báo cần những người trợ bút không công, tôi sẽ vui lòng giúp quý báo…

Rời khỏi biệt thự Hoa Đường ra về tôi cảm thấy như vừa rời khỏi một thư viện.

Thanh Tịnh

————————————-

Tư liệu do Dương Phước Thu, Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế sưu tầm và chú thích.

Nguồn Việt Nam Tân báo, số 33 ra ngày 2 tháng 5 năm 1945.

Lúc đương chức Thượng thư Bộ Lại, Phạm Quỳnh ở nhà “công vụ”, nơi hiện đóng là Nhà văn hóa thành phố Huế. Nguyên trước là chỗ đất đóng trường Hậu Bổ.

Tháng Mười Hai 9, 2021

Ông quả là Người nặng lòng với nước

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 8:05 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười ba, kỳ 2 tháng 12 năm 2021.

ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC

Phạm Tôn

Lời dẫn của Phạm Tôn: Đó là tên hai bài Phạm Tôn tôi viết gửi dự Cuộc Trao đổi – Ý kiến về trường hợp Phạm Quỳnh – Nguyễn Văn Vĩnh trên tạp chí Hồn Việt (từ tháng 8 đến tháng 11/2008). Bài thứ nhất được đăng trên số 15, tháng 9/2001, nhưng đổi nhan đề thành Ông Phạm Quỳnh quả là người nặng lòng với nước. Bài thứ hai đăng trên số 17, tháng 11/2008, lại được đổi nhan đề là Phạm Quỳnh, cuộc phiêu lưu không tránh khỏi bi đát… Nhưng sau đây, chúng tôi đăng lại nguyên văn hai bài trên theo đúng nhan đề và toàn văn bài đã gửi cho Hồn Việt. Đó là theo đúng lệ của blog chúng tôi: chỉ đăng nguyên văn theo đúng bản gốc, chưa bị ai – ngoài tác giả – biên tập, sửa chữa.

*

*       *

Nhân đọc bài “Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong” của Đặng Minh Phương (Tạp chí Hồn Việt số 14. Tháng 8 2008)

Nhà báo lão thành Đặng Minh Phương tỏ ra có con mắt tinh đời khi trích dẫn đoạn văn sau đây: “Làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng, món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ là để rồi lấy danh nghĩa chính phủ Nam triều đòi Pháp phải trở lại hiệp ước 1884. Vậy một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua chỉ là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực tình là một người dân mất nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm”. Đó là một đoạn văn có trọng lượng trích trong tác phẩm Đời viết văn của tôi của nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, phần ông viết rõ lý do vì sao ông viết nên thiên kiệt tác Kép Tư Bền: Đó là vì ông thương…Phạm Quỳnh! (Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, năm 1971). Có điều đáng tiếc là nhà báo lại gán đoạn đó cho Phạm Tôn, khiến cho Phạm Tôn mang tiếng “đạo văn” khi ông viết: “ông Phạm Tôn trên báo Xưa và Nay tháng 9-2006 viết” trước khi đưa ra đoạn văn trên. Sau đoạn văn trên ông còn thòng thêm một câu hóm hỉnh: “(xin được lưu ý ông Phạm Tôn là ông Phạm Quỳnh từng nói nước ta còn mà!)”. Quả tình Phạm Tôn tôi thuộc thế hệ sinh sau đẻ muộn, không có hiểu biết, cũng không đủ tầm cỡ để viết những dòng nặng ký như thế… Nhưng nhân được người trên quan tâm như vậy, chúng tôi cũng xin bày tỏ vài điều chân thật, không phải ai cũng biết cả.

Phạm Quỳnh là con nhà nho, cháu nhà nho, chắt nhà nho, mà đều là nhà nho nghèo, loại hàn sĩ cả. Từ cụ Dưỡng Am Phạm Hội (trích Gia phả họ Hoàng Đạo- Phụ: bên ngoại, do rể: Hoàng Đạo Thành bái ghi, môn đệ tử: Tô Ngọc Huê thủ thức, tôn sinh: Ngô Văn Dạng phụng viết, Hoàng Đạo Thúy kính dịch từ chữ Hán) đến ông nội rồi cha đẻ đều dạy học mà không thu học phí, chỉ sống với những gì học trò đem biếu, khi thì thúng gạo, rổ khoai, lúc con gà, con cá, mớ rau. Chín tháng mất mẹ, bà nội và bà cụ tú cho hưởng thừa tự phải bế đi bú chực nhà hàng xóm. Rồi chín tuổi mất cha, gia đình khốn khó, hai cụ phải bòn những quả ổi, quả bồ hòn trong vườn nhỏ sau nhà đem bày bán trước cửa cùng mớ hàng xén lặt vặt để có cái cơm cháo qua ngày nuôi cháu khôn lớn. Sau đó lại lo cháu “Không có cái chữ thì làm sao sống được với đời”, bèn cho theo học trường tiểu học Pháp Việt mới mở ở phố Hàng Bông gần nhà (Hoàng Đạo Thúy: Phố phường Hà Nội xưa, Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2000). Chỉ vì ở đấy học không mất tiền. Rồi tiếp đến lại học Trường Thông ngôn (Collège Des Interprètes) ở bờ sông Hồng, cũng lại vì học ở đấy không mất tiền!

Nghèo khổ như thế lại ham học và có hiếu với hai bà cụ, Phạm Quỳnh chỉ mong cố gắng học để đổi đời, đền đáp ơn hai bà nuôi dạy. Mặt khác “Ông, cha Phạm Quỳnh có liên hệ mật thiết với các tổ chức Cần Vương, Phục Việt chống Pháp đương thời (…) Vì thế, không lạ gì chuyện cậu thanh niên Phạm Quỳnh đã nhiệt tình tham gia ủng hộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tham gia bãi khóa ngay tại Trường Thông ngôn, phản đối đàn áp Đông Kinh Nghĩa Thục, bắt giam các sĩ phu yêu nước đến nỗi đã từng bị Pháp bắt giữ, năm mới 15 tuổi” (Mạc Kinh: Nỗi oan khiên của học giả Phạm Quỳnh, trong tập Giải oan lập một đàn tràng, Cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, phát hành lần thứ nhất tại Hoa Kỳ, 2001). Sau đó được thả ra vì thấy là người không thuộc tổ chức hội kín nào cả (Sự tình cờ của lịch sử đã khiến con thứ mười của Phạm Quỳnh là Phạm Thị Hoàn sau này lại lấy nhạc sĩ Lương Ngọc Châu cháu nội cụ Lương Văn Can vị chủ soái của Đông Kinh Nghĩa Thục).

Năm 1908, đỗ thủ khoa trường Trung học thuộc địa (Collège Du Protectorat) tức trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Phạm Quỳnh được tuyển vào làm nhân viên Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Êxtrême – Orient). Tại đây do yêu cầu công việc, Phạm Quỳnh phải tự học Hán văn đến mức đọc và viết được văn chữ Hán. Trường Viễn Đông Bác Cổ là cả một kho tư liệu sách vở, “kho báu tri thức’ cho chàng trai hiếu học, yêu nước, thiết tha với lịch sử cha ông. Phạm Quỳnh đã tìm trong mớ giấy bản phủ bụi và tìm ra những áng văn thơ yêu nước. Ông đọc, chọn lọc trong sách Lệ ngữ Văn tập rồi dịch ra Pháp văn, đưa đăng trong tạp chí của Trường Viễn Đông Bác Cổ như tài liệu tham khảo lịch sử hai bài của Nguyễn Viết Lụy tế các tướng sĩ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Từ đấy hai bài này mới được người đời biết đến (Hoàng Đạo Thúy: Nhà họ Phạm Lương Đường và chủ bút Phạm Quỳnh, bài viết theo yêu cầu của Viện Văn học ngày 5-12-1992).

Từ 1913, hai mươi tuổi, Phạm Quỳnh đã thử sức trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh với những bài khảo cứu, bình luận văn học nghệ thuật. Đến 1917, mới 24 tuổi nhưng đã có thâm niên 9 năm công tác nghiên cứu viết lách, ông chớp thời cơ nhận làm chủ bút phần quốc ngữ tạp chí Nam Phong, giành lấy cho mình và những người cùng chí hướng, yêu nước, đặc biệt yêu tha thiết tiếng ta, có chỗ để thi thố tài năng, góp sức xây dựng nền quốc học, mở mang dân trí, tăng tiềm lực cho đất nước sau này. Trên tạp chí Nam Phong, ngoài những việc không thể không làm trong một tờ báo mà thực tế là do người Pháp chi tiền và điều hành, ông đã khôn khéo đăng những bài văn yêu nước của người xưa và cả người đương thời, những bài về lịch sử chống ngoại xâm,v.v… làm nên cả một bộ bách khoa thư về lịch sử và đời sống Việt Nam phong phú. Cũng từ đó tập hợp được lực lượng yêu quốc văn, yêu quý lịch sử nước nhà, tạo điều kiện cho biết bao thanh niên nâng cao hiểu biết về nhiều mặt đời sống, vun bồi thêm lòng yêu nước sẵn có trong họ.

Năm 1925 Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) rồi đưa về Hà Nội giam ở nhà tù Hỏa Phan boi chau (tre)Lò, đem ra xét xử ở Hội đồng Đề hình là tòa án thực dân tàn bạo nhất thời ấy. Tất nhiên, kẻ đứng ra xét xử đều là người Pháp. Hơn nữa, dư luận người Pháp ở Đông Dương cũng như ở chính nước Pháp sẽ có tác động rất lớn, có thể nói là quyết định đối với vụ xử án này. Vì thế ông đã không phát biểu chính kiến trên Nam Phong, mà trên một tờ báo của Pháp có ảnh hướng rất lớn hồi bấy giờ. Hơn nữa viết trên báo tiếng Pháp thì tự do hơn, có thể trình bày hết ý mình, vì thời ấy báo tiếng Pháp không bị kiểm duyệt. Ông cho đăng trên tờ Indochine Républicaine bài lên tiếng công khai bênh vực Phan Bội Châu, yêu cầu khoan hồng cho nhà chí sĩ chỉ có “một tội” là “tội yêu nước như bất kỳ người Pháp nào yêu nước Pháp” (Chính Đạo: Hồ Chí Minh con người có huyền thoại, tập 2, 1925-1945, Văn hóa, Houston, Mỹ, trang 49, chú thích 8). Sáu tháng sau ngày bị bắt, 8 giờ 30 phút ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình xử vụ Phan Bội Châu. “Hội đồng Đề hình Pháp cho là: trong 8 tội đó có 6 tội đáng phạt đi đầy, 1 tội đáng khổ sai chung thân và một tội đáng tử hình (theo Bùi Đình: Vụ án Phan Bội Châu, NXB Tiếng Việt, Hà Nội, 1950). Tuy vậy, có lẽ vì sợ hậu quả của vụ án mà tới lúc này họ chưa thể lường được nếu xử tử hình Phan, nên vào phút chót sau một ngày xét xử, hội đồng này đã tuyên án Phan khổ sai chung thân (Nguyễn Quang Tô: Sào Nam Phan Bội Châu con người và thi văn, tủ sách Văn học, bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh Niên, Sài Gòn 1974).

Năm 1932, Phạm Quỳnh nhận vào Huế tham gia quPham Quynh_Trean trường với ý nghĩ ngây thơ là có điều kiện để những điều mà trước nay mình chỉ có thể luận bàn trên trang giấy và bằng lời nói thì nay có cơ thực hiện được. Mười ba năm ông làm quan thì có tới hơn chín năm làm Thượng thư Bộ Học. Ông kiên quyết chủ trương người Việt phải học tiếng Việt đã, chống lại chủ trương thịnh hành thời ấy là cho học ngay tiếng Pháp từ vỡ lòng “vì là thần dân của Đại Pháp thì học tiếng Pháp sớm ngày nào hay ngày nấy, dù sao rồi cũng ra làm việc cho Tây”. Ông cố gắng rất nhiều, nhưng mới chỉ thành công ở mức bắt buộc phải học tiếng Việt đạt bằng Sơ học yếu lược mới được thi tốt nghiệp tiểu học.

Năm 1933 mới làm quan được một năm ông đã viết thư cho Lu-i Mác-ti (Louis Marty) là giám đốc chính trị tùng sự tại phủ toàn quyền Đông Dương, cũng là “bạn cũ” đồng sáng lập tạp chí Nam Phong, để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Lu-i Mác-ti can thiệp giảm án. Trong thư đề ngày 18-1-1933, Phạm Quỳnh nêu rõ ông (ở Huế) viết thư này để giới thiệu em vợ là ông Lê Xuân đến gặp Lu-i Mác-ti ở Hà Nội, trình bày một việc bà mẹ vợ Phạm Quỳnh yêu cầu ông nhờ Lu-i Mác-ti giúp đỡ. Đó là vụ một chiến sĩ cộng sản 18 tuổi tên là Nguyễn Công Nghi bị bắt ở Kiến An vì một vụ “âm mưu Cộng Sản”, đã bị tòa án Kiến An kết án tù chung thân và hiện nay đang bị giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, sắp bị đầy đi Côn Đảo, thậm chí đầy đi ngoài xứ Đông Dương. Anh này là em ông Nguyễn Công Kính, chủ hãng thuốc lào Giang Ký danh tiếng ở Hà Nội , một người giàu có, đáng kính và có vai vế trong xã hội, lại là người có ân nghĩa lớn với gia đình vợ Phạm Quỳnh. Ông trình bày sơ qua vụ này và đề nghị Lu-i Mác-ti can thiệp, còn gợi ý nếu không thể tha được (Vì ông tin là anh ta vô tội) thì cho đi tù ở gần Hà Nội hoặc ít nhất cũng là vùng Bắc Bộ, đừng bắt đi Côn Đảo hay những nơi quá xa xôi. Vì gia đình ấy, ông anh cả không có con chỉ trông vào anh ta kiếm con trai nối dõi, mà anh lại cHoang Hy Nguyenhưa có vợ; không được thăm nuôi thì gia đình rất lo lắng, v.v… Ông cố hết sức dùng tình cảm riêng thân mật lâu năm với Lu-i Mác-ti để xin xử nhẹ tay với người cộng sản trẻ này. Tư liệu này chúng tôi được đọc là do sau khi Lu-i Mác-ti chết, bà vợ thấy có bút tích của Phạm Quỳnh, đã gửi lại cho bà Phạm Thị Ngoạn, con gái ông cũng là tiến sĩ Xoóc-bon (Sorbonne), Pa-ri, tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction Au Nam Phong)

Ông Phạm Tuân con trai út Phạm Quỳnh sinh năm 1936, đến nay (2008) còn nhớ rất rõ và kể cho người viết bài này kỷ niệm khó quên thời thơ ấu, đặc biệt là những ấn tượng lạ lùng về những lần được thân phụ dẫn đi thăm “ông già điên” ở túp lều tranh bên bến Ngự. Năm ấy ông mới lên bốn.

Các buổi chiều, cơm nước xong, thường bác tài Mai hỏi: “Chú Miềng (chú mình, nói trại giọng miền Trung) có theo Cụ đi chơi không…Hôm nay Cụ lại đến “ông già điên đây”. Ông nhớ hồi đó không biết người ấy là ai nhưng gặp thì thấy hiền hậu, dễ thương, hay hỏi chuyện trẻ con dễ hiểu mà cũng dễ trả lời, nên ông thường bám xe đi theo cha luôn. Cha và ông già ăn mặc xuềnh xoàng, râu tóc dài, xơ xác thường vào trong nhà nhỏ to trò chuyện một lát rồi ra về. Vẻ thân mật lắm, nhất là lúc mới đến và khi sắp ra về. Cuối năm ấy ông già mất, ông Tuân mới nghe cha nói đó là Cụ Phan Bội Châu.

Ngày 24-12-1925, một tháng một ngày sau hôm xử án tại Hà Nội kết án khổ sai chung thân thì toàn quyền Va-ren (Varenne) vốn là Đảng viên Đảng Xã Hội Pháp ký quyết định “ân xá Phan Bội Châu. Tuy “được ân xá”, nhưng, thật ra ông bị giam lỏng ở bến Ngự (Huế), bị mật thám theo dõi, kiềm chế mọi hoạt động. Ông dựng một túp lều ở bến Ngự và sống ở đấy suốt 15 năm cuối đời. Nơi đâPhan boi chau (gia)y biến thành nơi tập trung của thanh thiếu niên và học sinh Huế, tới để yết kiến, chiêm ngưỡng vị anh hùng dân tộc. Nơi đây cũng thường lui tới một số công chức còn nặng tình dân tộc, sùng bái các vị anh hùng, vĩ nhân đã hiến trọn cuộc đời cho đất nước (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).

Biết cảnh sống khó khăn của Phan Bội Châu, nhiều người đã gửi ngân phiếu nặc danh giúp ông tiền bạc, nhiều đến nỗi Phan Bội Châu bị phiền hà. Ông đã phải buộc lòng từ tạ bằng một bức thư với lời lẽ chân tình tha thiết. Trùm mật thám Trung kỳ Xô-nhi (Sogny) đã bủa một mạng lưới mật thám dày đặc bao vây túp lều bến Ngự. Mà hồi ấy, theo như chính lời Phan Bội Châu nói (do Lạc Nhân, nguyên thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân ghi lại đăng trên báo Tiếng Dân năm 1933) thì: “Tôi không hề kêu ca, nhưng trong nhà nhiều miệng ăn, nào là các đồng chí đi đầy về đã quá già, không biết làm gì để sống, cũng phải tới đây chung sống với tôi, nào con cháu các đồng chí, kẻ chết chém, người chết trong lao, tôi phải nuôi dưỡng vì không biết bỏ cho ai bây giờ”. Trong số đó có Phạm Công Nguyệt con trai độc nhất của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, chưa từng được biết mặt cha. Anh được Phan Bội Châu nuôi cho ăn học tại trường Khải Định Huế đến Nha Phan Boi Chauđỗ tú tài triết học. (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).

Ngày 29-10-1940, Phan Bội Châu mất, thọ 74 tuổi. Mai táng trong chiều ngày kế tiếp, theo đúng di chúc của Cụ. Ngoài những người thường ngày gần gũi bên cụ, không mấy ai dám lai vãng, sợ ty Liêm phóng theo dõi rầy rà. Theo Nguyễn Quang Tô: “hàng trăm, ngàn câu đối, văn tế được gửi trực tiếp đến nhà hoặc đăng báo, hay truyền tụng miệng cho nhau nghe… tạo thành một bầu không khí bi hùng tràn ngập khắp Trung Nam Bắc. Một số người còn gửi tiền về tòa soạn báo Tiếng Dân nhờ lo xây dựng phần mộ. Lại có những người thuộc hạng “tai to mặt lớn” đã phải lén lút chui lòn cửa sau nhà Phan để được tới trước bàn thờ Phan dâng điếu lễ và tấm lòng kính mộ.”

Không biết trong số những người “gửi ngân phiếu nặc danh”, “gửi tiền nhờ báo Tiếng Dân”, “lén lút chui lòn cửa sau” có Phạm Quỳnh không? Tôi nghĩ, công bằng mà nói, khó có thể trả lời dứt khoát là không.

Bởi, chỉ cần xua đi lớp bụi thành kiến kì thị dầy đặc đã chôn vùi cuộc đời ông suốt hơn nửa thế kỉ qua, ta thấy ngay ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC.

Những dòng tôi viết trên đây chỉ là nhân đọc bài của nhà báo lão thành Đặng Minh Phương mà nghĩ tới thôi, hoàn toàn không có ý trả lời, thảo luận hay tranh luận gì cả. Tôi viết chỉ là vì tâm đắc với L.T.S in trước bài ông là: “đánh giá công minh người và việc của quá khứ là việc khó. Nó cần rất nhiều điều kiện mà trước hết cần chỗ đứng nhìn, cần hiểu bối cảnh lịch sử và tư liệu lịch sử…Ngày nay chúng ta cần có thái độ cởi mở khoan dung, gạn lọc công bằng…nhưng cũng không được làm đảo lộn lịch sử, lờ mờ thật giả, đưa đến sai lệch nguy cơ cho lịch sử và cho cả hiện tại”

 Ngày 8-8-2008

Phạm Tôn

 Chú thích những chữ in trên giấy Phạm Quỳnh dùng viết thư cho Lu-i Mác-ti:

    • Bằng tiếng Pháp:
      • Palais Inpérial: Hoàng Cung
      • Cabinet Civil de Sa Majesté: Ngự tiền Văn phòng
    • Bằng chữ Hán:
      • Ngự tiền Văn phòng dụng tiên: Giấy viết thư Ngự tiền Văn phòng dùng

Thu gui Louis Marty

Tháng Mười Một 11, 2021

Phạm Quỳnh vẫn sống trong lòng cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ta

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 10:47 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười ba, kỳ 2 tháng 11 năm 2021.

PHẠM QUỲNH VẪN SỐNG TRONG LÒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TA

Blog PhamTon

Phạm Quỳnh sinh ngày 30/1/1893 (năm Nhâm Thìn) tại Hà Nội và mất tại Huế ngày 6/9/1945 (năm Ất Dậu), tức là sinh dưới thời Pháp thuộc và mất sau ngày nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời bốn ngày…

Từ ngày mất, gần như Phạm Quỳnh “biến mất” trên trường chữ nghĩa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trừ một trường hợp độc đáo: nhà văn “tả thực” lớn nhất nước ta, đang lúc ở đỉnh cao danh vọng, được nhân dân cả nước yêu mến, thì Nguyễn Công Hoan cho ra mắt tác phẩm cuối đời, ngay giữa Thủ đô Hà Nội, tác phẩm Đời viết văn của tôi (NXB Văn Học-1972-in 3200 cuốn). Trong đó, ông dành hai trang 160-161 thành thật viết rõ là mình sáng tác truyện ngắn nổi tiếng Kép Tư Bền, chỉ vì thương… Phạm Quỳnh!

Sau khi phát hành ít ngày, sách ấy bỗDoi viet vanng “biến mất” trong các hiệu sách và tất nhiên trong tất cả các thư viện công. Mãi đến năm 1996, đất nước đổi mới tròn mười năm, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã ra đời lâu rồi, mới lại thấy sách ấy được NXB Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tái bản với số lượng thật khiêm tốn: vẻn vẹn có 500 cuốn. Nhưng hai trang 181-182 vẫn còn nguyên văn phần nói về nhà văn viết Kép Tư Bền, chỉ vì thương Phạm Quỳnh. Đây là lần đầu Phạm Quỳnh xuất hiện trong lòng Tổ quốc mình, nay đã là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam!

Sau đó 10 năm, lại 10 năm, năm 2005, trong một mục nhỏ Ý kiến – Trao đổi của một tạp chí nhỏ ở tỉnh lẻ Hải Dương tờ Khoa học và Ứng dụng số 2 đã đăng trên hai trang 9-10 bài Phạm Quỳnh chủ bút báo Nam Phong của Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, một người cùng quê Hải Dương với Phạm Quỳnh. Bài này, sau đó đăng lại trên tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học và Công nghệ, số 12 ngày 20/6/2006. Và ngày 10/7/2006 lại đăng trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc số 13 (278) cơ quan của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

Cuối năm 1992, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã viết một tham luận gửi hội thảo do Viện Văn học dự định tổ chức (không thành) tại Hà Nội. Sau này, bài được đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số tháng 7 năm 2005, đổi nhan đề và cắt đi một số đoạn. Đó là bài Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Cuối năm 2005, trên Tiền Phong Chủ Nhật các số 44, 45 và 46 đăng bài Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong, tức bài Những điều chưa biết về nhà văn hóa Phạm Quỳnh của Xuân Ba, đã bị tổng biên tập hồi ấy đổi tên “sau khi đã xén của tôi đi một nửa” (chữ của Xuân Ba)

Trước đó bốn năm, NXB Văn học đã cho phát hành 700 bản Mười ngày ở Huế của Phạm Quỳnh. Trong Lời nhà xuất bản (trang 8) viết: “về mặt văn hóa, văn học, về tiến trình phát triển nền văn xuôi quốc ngữ thì công lao đóng góp của ông cần được nhìn nhận lại. Vì vậy việc cho in lại các bút ký du lịch của Phạm Quỳnh chỉ là cụ thể hóa sự đánh giá lại tác giả này trên lĩnh vực văn học – báo chí, với tư cách là một tác giả văn học.”

Năm 2003, NXB Văn Hóa Thông Tin – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phát hành 1000 bản Phạm Quỳnh – Luận giải văn học và triết học (644 trang) do Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu. Trong Lời giới thiệu, Trịnh Bá Đĩnh viết: “Làm nên cốt cách ngòi bút của ông là các bài luận giải, khảo cứu mà nội dung nghiêng về tư tưởng và các vấn đề học thuật. Ở đó ta thấy một sự hiểu biết uyên bác, một cách diễn giải chu đáo tỉ mỉ, một nhiệt tình quảng bá tư tưởng, được diễn tả với một văn phong chặt chẽ, khúc chiết, chắc nịch mà các độc giả trí thức chắc sẽ ưa chuộng”.

Năm 2004, NXB Hội Nhà văn xuất bản Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh cũng 1000 bản, Vương Trí Nhàn chú giải. Tháng 3 năm 2007, NXB Trẻ phát hành 2000 bộ Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong 1917-1934 do Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và giới thiệu. Mỗi bộ bồm ba tập, mỗi tập khoảng 650 trang, trong đó có nhiều bài của Phạm Quỳnh. Sau này, năm 2013, chính Nguyễn Hữu Sơn đã sưu tầm và biên soạn Phạm Quỳnh tuyển tập du ký (NXB Trí Thức, 511 trang, khổ lớn 16x24cm phát hành 600 bản, Nguyễn Hữu Sơn viết: “Học giả Phạm Quỳnh viết du ký vừa thỏa mãn hứng thú nội tâm, trình bày những cảm xúc riêng tư vừa hướng tới giới thiệu những điều trải nghiệm tai nghe mắt thấy liên quan đến mỗi thắng cảnh di tích lịch sử và đời sống xã hội nơi phương xa. Đó cũng là nhu cầu tự nhiên kết nối giữa chủ thể sáng tác và phía tiếp nhận, nghĩa là bạn đọc cũng sẽ được hướng dẫn đi tham quan, du lịch, hành hương về xứ đẹp và cội nguồn lịch sử dân tộc nhờ chính các trang du ký. Du ký của Phạm Quỳnh là một nhà bảo tàng du lịch bằng ngôn từ nghệ thuật, giúp người đọc bốn phương “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”… Về phong cách nghệ thuật, du ký của Phạm Quỳnh hòa quyện được phẩm chất, tư thế học giả, nhà khảo cứu, bản lĩnh trí thức, nhà văn và nghệ sĩ (…) Nhìn chung trên địa hạt du ký, có thể khẳng định Phạm Quỳnh không chỉ đứng đầu Nam Phong Tạp Chí mà cũng là nhà viết du ký xuất sắc trong suốt cả thế kỷ XX.”

Cuối năm 2007, NXB Tri Thức cho ra mắt Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 – Essais 1922-1932, 1000 tập sách khổ 14, 5×20, 5. Việc xuất bản tác phẩm này cũng như bộ ba tập Du ký Việt Nam nói trên khiến năm 2007 có nhiều cuộc thảo luận về Phạm Quỳnh nhân ra mắt sách và còn âm ỉ lâu dài trên báo chí. Người dân thoải mái nói về Phạm Quỳnh, đặc biệt là khen ngợi tài năng và đạo đức của ông.

Năm 2011, NXB Hội Nhà Văn và Công ty Nhã Nam xuất bản 2000 cuốn sách gồm những bài viết cuối đời của Phạm Quỳnh, bao gồm 11 bài tạp văn và 51 bản ông dịch thơ Đỗ Phủ lấy tên chung là Hoa Đường tùy bút. Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết ngay đầu sách bài Lạ lùng một cuốn sách dở dang. Ông viết đầy xúc động: “Cuốn sách này của Thượng Chi – Phạm Quỳnh, cầm lên, nhẹ tay đến xót xa (11 bài tản văn, bài dài nhất chỉ chín trang, bài ngắn nhất vọn vẹn một trang! Và mấy chục bài thơ dịch Đỗ Phủ). Những trang viết cuối cùng của một người, một đời. Dở dang, thậm chí bài cuối cùng còn dừng giữa dòng, mà lại rất có thể sẽ là bài tâm huyết nhất của ông, về Kiều, mà ta biết ông gắn bó đến chừng nào. Ông nói: “Tôi với Truyện Kiều không phải là thái độ một nhà văn với một tác phẩm mà là tâm lý một người có cảm giác là một hội một thuyền…” Và “Trong cuộc “lăn lộn” (ngày nay ta gọi là dấn thân)” ấy, như ta biết, Phạm Quỳnh đã thất bại. Ông lui về ẩn dật, và bắt tay viết Hoa Đường tùy bút. Vậy Tùy bút Hoa Đường là gì? Thoạt nhìn, mươi bài tạp văn, không có chủ đề chung, không đường dây dẫn dắt nhất quán, tản mạn, rời rạc, như chợt nhớ đâu viết đấy, chợt nghĩ gì thì nói ra… Nhưng mà đọc đi đọc lại, ngẫm kỹ, rất có thể đây là một sự chuẩn bị, chuẩn bị cho một cuộc tổng kết lớn, và sâu, rất sâu nữa, mà tiếc thay, ông đã không kịp làm”. Rồi: “Tiếc thay ý đồ tổng kết lớn của ông, báo hiệu qua mấy phác thảo ngắn mà sắc như dao này, đã phải dở dang, Nhưng quả đây là một cuốn sách lạ, ngắn vậy mà cứ muốn đọc đi đọc lại, bởi dẫu dở dang, đọc cứ như tác giả đang nói về chính những điều xã hội ta đang phải đương đầu hôm nay.

“Những tư tưởng lớn, dù chỉ mới được nói ra một cách manh nha, vẫn có sức đi xa lạ lùng của chúng. Và nghĩ cho cùng, cũng không hề chậm”.

Năm 2006 là năm đáng chú ý về hiện tượng Phạm Quỳnh xuất hiện trở lại trên xuất bản và báo chí Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đầu năm, NXB Văn Học và công ty sách Thời Đại cho tái bản Thượng Chi văn tập của Phạm Quỳnh dày đến 1134 trang, in tới 1000 bản và chính thức bán và quảng cáo với bích chương lớn tại Hội sách thành phố Hồ Chí Minh tháng 3 năm đó. Tháng 8/2006 trong số 140 tạp chí hằng tháng Công giáo và Dân tộc có đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước, rồi tháng 9, trong số 267 tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam lại đăng bài Người nặng lòng với nước, tạp chí Nghiên cứu và phát triển ở Huế, số 3 (56) năm 2006 đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nhà, rồi tháng 9, tạp chí Công giáo và Dân tộc lại đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta. Tất cả mấy bài đăng trên mấy tạp chí Hà Nội, Huế, Sài Gòn kể trên đều là của Phạm Tôn.

Bẵng đi hai năm, lại thấy tác giả này xuất hiện trên Hồn Việt, một tạp chí của Hội Nhà Văn Việt Nam.

Số 15/9/2008 Hồn Việt có bài Ông Phạm Quỳnh là người nặng lòng với nước và số 17/11 là bài Phạm Quỳnh, cuộc phiêu lưu không tránh khỏi bi đát… hai nhan đề này là do tòa soạn đặt. Nhan đề vốn có chỉ giản dị là Ông quả là người nặng lòng với nước (bài 1 và 2)

Chúng tôi nghĩ sở dĩ có sự trở lại ngoạn mục của Phạm Quỳnh trên sách báo Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam một phần lớn là do trong Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2003, tập 3 đã có Mục Phạm Quỳnh, Nam Phong và có cả mục Pháp Việt đề huề với lời lẽ khá đúng mực, cởi mở hơn trước. Rồi năm 2004, Từ Điển Văn Học (bộ mới) của NXB Thế Giới ra mắt bạn đọc cũng đã có Mục Phạm Quỳnh do Nguyễn Huệ Chi viết (từ trang 1364 đến trang 1366) và mục Nhóm Nam Phong do Phương Chi viết (từ trang 1270 đến trang 1272). Nguyễn Huệ Chi viết: “Phạm Quỳnh là người làm việc không cẩu thả, dù dịch thuật hay trước tác, ông đều tra cứu cẩn thận, đắn đo câu chữ rất nhiều. Hơn nữa ông có thiên hướng thích loại văn chương nghị luận hơn là văn cảm hứng nên ngòi bút điềm đạm mực thước không phóng túng (…) Ngay cả những thiên du ký, phần tra soát luận lý vẫn nhiều hơn những trang nói lên tâm trạng và cảm xúc của mình, nên giá trị sưu khảo trong đó rất lớn (Chẳng hạn bài viết về lễ tế Nam Giao), nhưng đây đó vẫn có những nhận xét tinh tế dí dỏm. Là người biên khảo, lần đầu tiên Phạm Quỳnh cấp cho người đọc những khái niệm bước đầu về mỹ học nói chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết… nói riêng (…) Là người chú tâm rèn luyện câu văn quốc ngữ sao cho kịp trình độ văn chương thế giới, nhất là diễn đạt được các phạm trù trừu tượng, như tư tưởng tâm lý, triết học… Phạm Quỳnh đã hết sức du nhập và Việt hóa được nhiều khái niệm bắt nguồn từ Hán ngữ và làm cho tiếng Việt phong phú lên rất nhiều. Tiếng Việt qua thời Nam Phong có vẻ như đằm lại, pha phách nhiều chữ Hán hơn thời Đông Dương tạp chí, nhưng, chính là với trường đào luyện của Nam Phong, nó đã có một bước ngoặt căn bản để đạt đến một hệ từ vựng cao cấp hơn hẳn trước, đáp ứng yêu càu phát triển văn hóa giai đoạn 1932-1945, nhất là trong hệ thống ngôn từ học thuật biểu hiện ở các công trình biên khảo nở rộ từ sau năm 1940.”

Một dấu hiệu chỉ rõ sự cởi mở hơn của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là ngoài những tác phẩm của Phạm Quỳnh được tái bản hoặc xuất bản lần đầu và những bài viết về ông đánh giá con người và sự nghiệp của ông công bằng hơn trước, còn có việc xuất hiện cả những sách viết về ông. Năm 2010, NXB Thanh Niên ấn hành 2000 cuốn Phạm Quỳnh, con người và thời gian của nhà giáo, nhà văn Khúc Hà Linh người cùng quê Hải Dương với Phạm Quỳnh. Đến đầu năm 2012, tác giả lại chỉnh sửa và bổ sung nhiều đến mức NXB Thanh Niên cho ra đời Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc.

Quí 3 năm 2011, NXB Công an Nhân dân ấn hành 1000 cuốn Phạm Quỳnh, một góc nhìn của một người con xứ Huế, đại tá tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan. Đúng một năm sau, quí 3 năm 2012, lại cho ra mắt, Phạm Quỳnh, một góc nhìn (tập 2) của cùng tác giả. Nhà giáo kiêm nhà văn và đại tá kiêm tiến sĩ sử học ra hai tập sách đã dẫn đến hai cuộc hội thảo về Phạm Quỳnh, một ở Hải Dương, quê hương ông (tháng 6 năm 2010), một ở Huế, nơi ông sống những năm cuối đời và gửi lại nắm xương tàn (tháng 8 năm 2012). Cả hai cuộc hội thảo đều khẳng định Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn, có công với nước trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, nhất là ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt, cuộc hội thảo ở Hải Dương do chính Ủy ban Nhân dân tỉnh và ban tuyên huấn tỉnh ủy tổ chức. Cả hai buổi hội thảo đều được đưa lên truyền hình địa phương, hoàn toàn công khai, minh bạch với bàn dân thiên hạ.

Cuối năm 2013, NXB Tri Thức ấn hành Chúng tôi đã sống như thế của Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Ánh Tuyết tại Hà Nội, và nhà văn nữ Hà Khánh Linh xứ Huế có tác phẩm Những dấu chân của mẹ (NXB Văn Học). Cả hai tác phẩm đều có viết về ông với lòng kính yêu vô hạn.

Như thế là giờ đây, Phạm Quỳnh con người suốt đời trung với nước, hiếu với dân, mặc dù có số phận oan nghiệt đã có thể ngậm cười nơi chín suối: Tâm nguyện của ông đã được thực hiện, nước đã độc lập, dân đã ngày càng được sống tự do và no ấm hơn. Và những đóng góp của ông cho nước, cho dân ngày càng được nhìn nhận công bằng hơn và vẫn giúp ích cho đời cứ như ông vẫn sống trong cuộc đời này.

Vì “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, đúng như một câu thơ Kiều.

Thành phố Hồ Chí Minh 28/10/2014.

B.P.T.

Tháng Tám 9, 2021

Tư liệu nhà văn Sơn Tùng – “GIẾT MỘT HỌC GIẢ NHƯ VẬY THÌ NHÂN DÂN TA ĐƯỢC GÌ? CÁCH MẠNG ĐƯỢC LỢI ÍCH GÌ? (…) ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI XẤU!”

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 7:06 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười ba, kỳ 1 tháng 8 năm 2021.

TƯ  LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG

VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI

THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.

Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.

Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.

Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.

—-o0o—-

PHẦN 2: “GIẾT MỘT HỌC GIẢ NHƯ VẬY THÌ NHÂN DÂN TA ĐƯỢC GÌ? CÁCH MẠNG ĐƯỢC LỢI ÍCH GÌ? (…) ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI XẤU!”

Lời dẫn của Phạm Tôn: Những lời nói ngay từ tháng 9/1945 khẳng định chắc chắn, dứt khoát ấy của Hồ Chủ tịch đã được thuật lại rõ ràng trong bài Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 140, tháng 8/2006 và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9/2006.

—-o0o—-

Sau khi thoái vị, cựu hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy nhận lời mời Hồ Chủ tịch ra Hà Nội, ngày 4/9/1945. Ngay hôm sau, ngày 5/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghênh tiếp cựu hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy tại Bắc Bộ phủ từ 8-9 giờ. Và ngày 10/9 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm cố vấn Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Tiếp theo, các vị cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hồ Đắc Điềm ứng đáp lời mời Hồ Chủ tịch ra gánh vác việc nước. Trong thời khắc này ông Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế, ông đến nhà số 8 Lê Thái Tổ bên Hồ Gươm gặp Bác Hồ (từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, Bác ở nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô – Hoàng Thị Minh Hồ một nhà tư sản yêu nước, danh nho. Bác viết Tuyên Ngôn Độc Lập tại đây. Sau ngày người đọc Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9, Bác về ở nhà số 8 phố vua Lê Thái Tổ, hằng ngày đến Bắc Bộ phủ làm việc.)

Ông Vũ Đình Huỳnh kể:

– Ông chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế Tôn Quang Phiệt đến Bắc Bộ phủ, đồng chí thường trực văn phòng đưa khách vào phòng đợi rồi đến báo với tôi. Tôn Quang Phiệt, một danh sĩ tôi nghe tiếng từ lâu, nay mới gặp lần đầu. Hai chúng tôi tay bắt mặt mừng… Anh xin được gặp Ông Cụ, nhiều vấn đề phải thưa ngay với Cụ. Tôi hẹn anh Tôn Quang Phiệt, hiện giờ Ông Cụ đang bàn công việc khẩn, tướng Lư Hán đến Hà Nội rồi. Sáng mai Ông Cụ hội đàm với Lư Hán… Tôi vào phòng họp, báo với Bác: – Ông Tôn Quang Phiệt trong Huế ra đang ở phòng khách, xin Bác cho gặp chiều hôm nay, có được không. Lúc nói đến ông Tôn Quang Phiệt, Bác và anh Võ Nguyên Giáp đều biểu lộ sự vui mừng tái ngộ. Bác nói: – Ông Tôn Quang Phiệt là chỗ quen biết. Ngày còn nhỏ, tôi theo cha lên Võ Liệt, Nguyệt Bồng huyện Thanh Chương để học, Tôn Quang Phiệt bấy giờ độ 4,5 tuổi…Chú Tư hẹn với chú Phiệt đúng 16 giờ gặp nhau ở “Bát số” (số 8, phố vua Lê Thái Tổ – tiếng lóng, mật hiệu). Chiều hôm ấy, Hồ Chủ tịch làm việc với ông Tôn Quang Phiệt tại đây. Chính trong buổi làm việc này, ông Tôn Quang Phiệt báo với Hồ Chủ tịch: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi!” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) Bác thu hai cánh tay vào sát ngực tựa lên mặt bàn, lặng ngắt một lúc…Người nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì?” Người duỗi hai tay ra mặt bàn: “Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!”

PHẦN 3: “LÚC NÀY CÒN CỤ PHẠM QUỲNH THÌ…”

Hồ Chủ tịch, Thượng khách thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp từ 31/5 đến 20/9/1946. Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch. Ông Vũ Đình Huỳnh vừa nói, vừa mở tập Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn tháng sang Pháp –Đ.H viết là sở cứ: …“Pháp không chịu công nhận Việt Nam độc lập mở chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 đang lan rộng ra Nam Trung Bộ mà lại mời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thượng khách thăm chính thức nước Pháp, đó là điều chưa từng có trong lịch sử. Còn kỳ lạ hơn, sau lễ đón nghi thức nguyên thủ quốc gia tại phi trường Le Bourget ngày 22/6/1946, Hồ Chủ tịch về nhà khách chính phủ Royal Monceau. Tại đây, liên tiếp các chính khách, các nhà văn hóa danh tiếng, các tướng lĩnh, các văn nghệ sĩ, báo giới, các đảng lớn ở Pháp… đến chào Hồ Chủ tịch.

Người đến chào Hồ Chủ tịch đầu tiên là Đại tướng Juin, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp. Rồi Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Moutet, Bộ trưởng Justin Godart, nhà kiến trúc sư danh tiếng Francis Jourdain, giáo sư nghị viện Privet CTS Paillet, tướng Petit, chủ tịch báo giới Cộng hòa Pháp Bayet, trạng sư Nordman, văn sĩ Bloch, bà Cotton lãnh tụ phụ nữ Dân chủ. Điều lạ là, Đảng Cộng hòa bình dân (MRP- đảng của thủ tướng Bidault) do ông Schuman chủ tịch đảng dẫn đầu đoàn, ông Francisque Gay – Bộ trưởng, ông Michelet – Bộ trưởng, ông Collin ủy viên trung ương, ông Gortais ủy viên trung ương, ông Debey- ủy viên trung ương, ông Ammury ủy viên trung ương, ông Terrenoir – ủy viên trung ương, ông Max André- trưởng đoàn đại biểu Pháp, Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau. Kế đến là đoàn Đảng Xã hội Pháp đến chào Hồ Chủ tịch gồm có bà Morty Capgras, ông Moutet – Bộ trưởng, ông Philip-Bộ trưởng, ông Luyssy nghị viên, ông Rosenfeld- Viện sĩ, ông Boutbrien- bác sĩ và các ủy viên trung ương Roux, Stble, Dechezelles… Hồ Chủ tịch từng sinh hoạt trong đảng Xã hội… các vị vui chuyện với Người suốt 8 giờ tối đến 2 giờ sáng… Đoàn Đảng Cộng sản Pháp: Hai ông bà Cachin, Thorez Phó chủ tịch chính phủ, bà Braun Phó chủ tịch Quốc hội, bà Jeannette Vemersche nghị viên, bà Vaillant Couturier nghị viên, Duclos Phó chủ tịch Quốc hội, Marty ủy viên trung ương, Mauvais ủy viên trung ương, Billoux Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tillon Bộ trưởng Bộ quân khí…

Một đoàn văn sĩ, thi sĩ lừng danh thế giới đến chào Hồ Chủ tịch: Triolet, Aragon, Richard Bloch, Boene, Moussinac, Masson, Séghers, Pierre Emmanuel. Ông bà Joliot Curie hai nhà bác học thế giới đến chào Hồ Chủ tịch rất thân tình, đàm đạo gần hai tiếng đồng hồ. Về sau, hai nhà bác học Joliot Curie còn gặp Hồ Chủ tịch mấy lần…Lại…không thể tưởng tượng nổi, nhà danh họa Picasso gặp Hồ Chủ tịch ôm choàng lấy nhau hồi lâu! Vừa hàn huyên Picasso vừa ký họa chân dung Hồ Chủ tịch. Bức chân dung lịch sử ấy người giao cho tôi cất giữ. Hơn hai mươi năm sau tôi gặp họa, bị khám nhà nên không còn nữa.

Đến như cựu Toàn quyền Đông Dương hai lần A.Saraut cùng với con rể là Thượng sứ Sainteny đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và ôm chặt lấy Nguyễn Ái Quốc năm xưa trước quan khách trong bữa tiệc long trọng!

Trước ngày khai mạc hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau, Hồ Chủ tịch gặp mặt tất cả phái đoàn: ông Phan Anh, ông Bửu Hội, ông Hoàng Minh Giám, ông Nguyễn Văn Huyên, ông Trịnh Văn Bính, ông Dương Bạch Mai, ông Nguyễn Mạnh Hà, ông Tạ Quang Bửu, ông Đặng Phúc Thông, ông Huỳnh Thiện Lộc, ông Chu Bá Phượng, ông Hoàng Văn Đức. Trưởng đoàn là ông Phạm Văn Đồng. Lúc các thành viên đoàn Việt Nam vào đủ trong phòng, Hồ Chủ tịch nói với ông Phạm Văn Đồng, có ông Đỗ Đình Thiện và tôi (Vũ Đình Huỳnh): “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Người im lặng. Ông Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Mà cũng chỉ có Bác Hồ! Sau khi ở Pháp về, ngày 4/12/1945, trong phiên họp Chính phủ Người đề nghị trợ cấp hằng tháng cho hai bà Thành Thái, Duy Tân mỗi bà 500 đồng Đông Dương

Lời bình của Phạm Tôn: Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu năm nay 89 tuổi, vừa nhận giải thưởng “Nghiên cứu – 2008” của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh, công nhận thành tựu suốt đời của cụ. Trong một lần vui chuyện cụ đã kể cho chúng tôi: Năm nọ, thành phố Hồ Chí Minh có yêu cầu Giáo sư Trần Văn Giàu và cụ chủ biên một tập sách giới thiệu toàn diện về Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Khi cùng làm việc với nhau, bỗng một hôm Giáo sư Trần Văn Giàu thở dài: “Giá như bây giờ còn cụ Phạm Quỳnh, có phải là đỡ không…” Câu nói ấy vô tình gần giống hệt lời Hồ Chủ tịch nói năm 1946, trước ngày khai mạc Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau trên đất Pháp.

Địa chỉ liên hệ blog chúng tôi là:

PHẠM TUYÊN: N2  P305 Ngõ 40 Vạn Bảo, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: (+84) – 4 – 3832.5283
Mobile: (+84) – 913.043.580
Email: phamtuyen1930@yahoo.com.vn
hoặc
TÔN THẤT THÀNH: 82 Lý Chính Thắng, Phường 8, Quận 3, Tp.HCM
Điện thoại: (+84) – 8 – 3848.0803
Email: thanh.phamton@gmail.com

Tháng Mười 6, 2020

Trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 6:11 sáng

 Blog PhamTon năm thứ năm mười ba, kỳ 2 tháng 10 năm 2020.

TRƯỞNG NỮ CỦA HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH

Dã Thảo

Bà Phạm Thị Giá, trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh, sinh ngày 27/10/1913 (tức 28 tháng 9 năm Quý Sửu) tại nhà số 1 phố Hàng Trống Hà Nội, sau anh trai là Phạm Giao, trưởng nam, sinh năm 1911. Nhưng, bà lại mất ở Bạc Liêu, tại nhà con gái út, nơi bà sống tám năm cuối đời, ngày 16/12/2000 (tức 21 tháng 11 năm Canh Thìn).

Đám tang bà giản dị, ngoài gia đình cô con út sống ở Bạc Liêu, hai con trai từ Hà Nội, chỉ có cháu đích tôn, bố mẹ cháu, bốn người cháu gọi bằng bác, một người bạn của gia đình từ Thành phố Hồ Chí Minh về và bà con lối xóm, bạn bè vợ chồng cô con út. Đó chính là làm theo lời bà dặn từ nhiều năm trước khi mất mà tất cả các con đều nhớ rõ: “Suốt đời mẹ chỉ sống cho gia đình, không làm nên việc gì ích nước lợi dân, cho nên mẹ muốn khi chết, không loan báo trên báo đài gì hết, chỉ những bà con gần gũi biết là được rồi.

Đám tang lặng lẽ đi trong mưa nhẹ phương Nam…

Cuộc đời gần một thế kỷ của bà không ít thăng trầm, trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới và hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc suốt hơn ba mươi năm ròng,  và thời bao cấp khốn khó sau chiến thắng thống nhất đất nước. Bà đã làm tròn trách nhiệm người công dân Việt Nam yêu nước thương nòi như thân phụ bà và làm tròn nhiệm vụ người vợ thảo, người mẹ hiền, một mình nuôi dạy bầy con thơ dại nên người.

Ba bo va chu than

*

*      *

Là con gái trưởng, gia đình lại đông con, mới 15 tuổi đầu bà đã phải phụ mẹ lo việc gia đình, chăm sóc đến…tám em nhỏ. Kể cả bế ẵm các em, cho các em ăn. Cho nên bà chỉ học tiểu học, không được học lên.

Năm 18 tuổi thì lấy chồng, một chàng trai xứ Huế, có chí, có tài, nhưng nghèo, con một quan huyện từ quan khi chưa đến tuổi bốn mươi, vì không chịu làm theo lệnh quan Tây đi bắt Cộng sản, những người mà ông khẳng định lương thiện, không thể bắt.

Vợ 18, chồng mới 24, lại gánh một gánh nặng bên nhà chồng đông chị em…

Bà không bao giờ quên những ngày còn ở bên cha mẹ, mà bà gọi là thầy, me. Bà gần gũi với cha, thức chép các bài cha dịch miệng đến khuya, đun nước pha trà cho cha, bổ cam cha xơi lấy sức mà làm việc. Chính ông đặt tên cho bà là Giá, cái giá, vì khi mới sinh, bà trắng như cái giá. Thật là dân dã nôm na và biết bao yêu thương. Khi bà sinh con gái đầu lòng, cũng là lúc ông vào Huế làm quan, ông bảo khi nào cho cháu vào Huế là thăm được cả bên nội, bên ngoại. Hai vợ chồng bà sống nhiều năm tại nhà số 5 phố Hàng Da, nơi gia đình ông từng sống và có thời còn là trụ sở tạp chí Nam Phong nổi tiếng hồi đầu thế kỷ XX. Các em Phạm Bích học Luật, Phạm Khuê học Y đều sống ở nhà bà. Ngoài ra, còn có ông anh họ và em trai chồng bà cũng từ Huế ra Hà Nội học. Vợ chồng bà cưu mang tất cả. Chồng bà là Tôn Thất Bình, dạy học ở trường Gia Long, sau là hiệu trưởng điều hành của Trường trung học Thăng Long (Ngõ Trạm) nổi tiếng. Từ ngày có con đầu lòng, ông còn nhận làm chủ bút cho tờ La Patrie Annamite (Tổ quốc An Nam). Mỗi tháng lĩnh lương, ông lại bỏ tiền vào từng cái hộp gỗ nhỏ, ngoài có ghi tên từng đứa con, để sau này lo cho việc học hành của các con. Gia đình bà Giá sống êm ấm như vậy cho đến năm 1945, nhiều biến cố đã xảy ra, khiến bà từ một phụ nữ chỉ biết lo cơm ngon canh ngọt, dạy dỗ các con đã phải đứng ra chèo chống cả một gia đình, mà không phải chỉ là gia đình nhỏ của riêng bà.

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, em trai Pham Khuê về nghỉ hè ở Huế vội ra báo cho chị biết cha đã bị bắt ngày 23/8. Bà cùng chồng và vợ chồng người em gái là bà Phạm Thị Thức và bác sĩ Đặng Vũ Hỷ bàn nhau phải xin gặp Cụ Hồ để kêu oan và giao cho em Khuê là người biết rõ sự việc viết thư trình Cụ. Bà nhờ ông Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ và công tác ở văn phòng Chủ tịch xin được gặp. Ông Phan Bôi là em ruột ông Phan Thanh, cùng làm việc ở Trường Thăng Long với chồng bà Giá. Ông Nam sốt sắng nhận lời và sau đó, ngày 31/8/1945, hai chị em bà được Cụ Hồ tiếp lúc 11 giờ, nhận thư, ngay sau khi Cụ duyệt lại lần cuối cùng Bản Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ đọc ngày 2/9.

Sau này, bà vẫn nhớ mãi thái độ thân thiết ân cần của người đứng đầu Nhà nước trong buổi tiếp và lời dặn của Cụ nói các chị cứ yên tâm, tôi sẽ xem xét. Chính vì thế, bà lại càng không thể hiểu được vì sao sau đó thân phụ lại bị hạ sát bí mật, hơn ba tháng sau mới công bố trên hai tờ báo nhỏ của địa phương.

Bấy giờ, bà đang bụng mang dạ chửa cô con út.

Sau quốc khánh đầu tiên của nước ta, báo chí loan “tin vui” là từ nay chấm dứt các vụ bắt bớ, nhân dân yên tâm làm ăn dưới chế độ mới. Nhưng lạ thay, vẫn có “ngoại lệ”. Tối 7/9/1945, có hai người xưng là học trò cũ, đến nhà xin đưa thầy Tôn Thất Bình đi giữa lúc ông cùng gia đình đang ăn bữa tối. Quá bất ngờ và đau khổ tột cùng, bà Giá đau bụng dữ dội và đã sinh con gái út ngay 10 giờ đêm hôm sau, 8/9/1945.

Những tưởng “hai học trò mời thầy đi có việc” ít lâu sẽ về nên bà Giá chưa vội cho làm khai sinh, chờ chồng về làm như những lần trước. Nhưng chờ mãi không thấy, mới nhờ em rể là dược sĩ Phùng Ngọc Duy làm giấy khai sinh cho cháu. Thành ra, trễ mất 10 ngày. Nay đã ở tuổi 65 mà chưa biết mặt cha, giấy khai sinh của bà Tôn Nữ Thanh Nhàn vẫn ghi ngày sinh là 18/9/1945.

Đẻ con xong, bà hoàn toàn mất sữa và bị liệt, mắt mờ, phải điều trị hơn nửa năm mới đi lại được và nhìn thấy đường. Bà lo ngay việc kiếm sống cho gia đình nay đã mất nguồn sống do chồng mang về hằng tháng, lại cưu mang thêm bao nhiêu người ngồi không. Vì từ sau ngày 23/8, được sự giúp đỡ của ông Hoàng Hữu Nam, cả đại gia đình trong Huế đã ra sống ở nhà số 5 phố Hàng Da này. Ông anh cả và bà vợ hai với ba con, các em trai gái, cộng lại tất cả gần hai chục miệng ăn. Bà em đón mẹ và các em nhỏ về sống cùng, còn lại, bà gánh hết… Đi lại được là bà Giá lên bà em có chồng dược sĩ mở hiệu thuốc, cất thuốc, cho vào cái làn mây trắng nhỏ, xách đi bán ở các nhà quen, vì hồi ấy thuốc khan hiếm, ai cũng cần. Rồi lại nhờ ông Hoàng Hữu Nam, biết được chỗ và được cấp phép đi thăm nuôi chồng “an trí” ở Hoài Đức Hà Đông, mang cho chồng sách học tiếng Anh Anglais sans Peine (Tiếng Anh dễ học) để ông học cho qua thời giờ. Cậu em Phạm Khuê, thương chị và hiểu cảnh nhà, ngày đi học, tối ra rạp Olympia ở trước chợ Hàng Da, kéo đàn phong cầm trước khi chiếu phim, Phạm Tuyên, mới 15 tuổi, chưa làm được gì… Cứ thế, bà Giá dốc dần các hộp nhỏ đề tên các con ra để chi tiền chợ hằng ngày. Cho đến năm 1946, tình hình kinh tế gia đình đang lúc kiệt quệ nhất thì có lệnh tản cư, toàn quốc kháng chiến bắt đầu.

Gia đình bạn bè bà đều về quê, nhưng bà biết về quê nào… Quê chồng thì quá xa, quê cha thì đã mấy đời định cư ở Hà Nội rồi, còn ai biết mình! Bàn với bà bạn thân là Nguyễn Thị Nội, ở ngay trước cửa nhà, cùng phố. Thì bà này mời về quê chồng, tức họa sĩ Nguyễn Cát Tường, cha đẻ của áo dài tân thời, cũng là thầy dạy vẽ ở trường Thăng Long. Thế là bà Giá chân yếu tay mềm, ngày trước chỉ nhất nhất theo lời chồng, đã dẫn đại gia đình gần 20 người cả lớn lẫn bé kéo nhau về làng Tràng Cát Hà Đông. May nhà ông anh họ họa sĩ có cái nhà mới làm, chuẩn bị cho con trai lấy vợ, ba gian, hai chái, tường gạch, mái rơm sẵn sàng cho mượn. Cả non hai chục con người về đấy, cũng vào rừng vải quét lá mà đun, ra sông nông trong vắt mò trai, hến, vẹm mà nấu, xào. Dần dà, trẻ con người lớn đều bị ghẻ lở như dân làng, phải nấu lá xoan mà tắm. Và đau mắt đỏ, phải nhỏ … nước muối. Mùa đông, nẻ, rán mỡ gà mà thoa mặt. Con út bà đành sống bằng cháo loãng pha với đường đỏ. Con trai út, thì ăn một bát xôi nhỏ mỗi sáng cùng cô bé chị họ đều ba tuổi. Còn tất cả, từ năm tuổi trở lên, thì nhịn. Ngày chỉ ăn hai bữa cơm độn ngô, khoai với củ cải muối cả củ như dân làng. Hôm nào mò được trai, sò, hến thì mới có chất đạm.

Được hơn nửa năm thì kiệt quệ quá, bà bàn với Phạm Khuê, 21 tuổi, tìm về nhà bà em kế là bà Thức đang ở quê chồng tận Nam Định. Móc nối được rồi, bà Thức cho người ra Hà Đông đón, cả nhà đi thuyền về Nam Định. Đến ngã ba sông Tam Tòa, Nho Quan thì bị vướng một thảm bèo dày hàng thước, người đi trên mặt bèo được, dài hàng cây số, do tắc ở hàng cọc cắm xuống lòng sông để “chống tàu chiến giặc Pháp”. Phải bỏ thuyền nhỏ, đi bộ trên bèo, lên thuyền lớn mới về đến nhà bà em.

Ở đấy được hơn một năm thì cô con thứ hai của bà ho ra máu mấy lần, chỉ còn cách đưa về Hà Nội may ra mới cứu được. Bà đành bỏ lại con gái lớn và hai con trai nhờ bà ngoại nuôi, đưa con gái đau yếu và hai con nhỏ ra Hà Nội. Phải thuê người gánh mới đi nổi đường xa. Thằng anh năm tuổi, một bên thúng; thúng kia con em gầy yếu phải dằn thêm mấy hòn gạch mới gánh được.

Bà đi sau, đỡ con gái đau yếu. Vất vả lắm mới theo kịp người đàn bà nhà quê gánh hai con nhỏ. Cuối cùng cũng về đến Hà Nội tạm bị giặc Pháp chiếm. Gặp lại bà em có chồng dược sĩ tạm lo cho nơi ăn chốn ở là bà nghĩ ngay đến việc đưa con gái đi chữa bệnh. Chiếu điện, thì ra bị lao nặng, hai phổi đã nát gần hết. Hồi ấy, ở Hà Nội cũng chưa có thuốc đặc trị, nghe nói còn đang thử nghiệm tận bên Pháp. Bà em đành lo thuốc thang cho cháu với các thuốc tìm được, “cầm cự được tới đâu hay tới đó”. Cô gái 14 tuổi phải kiêng khem, ăn riêng, ở riêng một buồng nhỏ. Khổ nhất mà cũng buồn nhất là không được lại gần hai em ở cùng nhà, lại khôn nguôi nhớ ba chị em ở xa. Một đêm mưa lạnh, bà đang nằm bên hai con nhỏ thì nghe có tiếng thét to, ghê rợn, hốt hoảng từ buồng con gái. Bà vội chạy ngay đến mở cửa thì thấy cô gái mặt xanh nhợt, đang gục đầu bên thau rửa mặt đầy máu. Bà đỡ ngực con, vuốt nhẹ lưng, lấy khăn lau mặt cho sạch rồi hỏi nhẹ nhàng: “Nó ra thế này là tốt lắm, con có thấy nhẹ người không…”. Cô gái nhắm mắt nằm yên trong lòng mẹ, thở nhẹ nhàng và thiu thiu ngủ. Sau này, chính bà cũng không hiểu vì sao lúc ấy mình có thể bình tĩnh, mà nói được câu ấy… Bà gọi thợ may về nhà, may đo cho cô một cái áo dài lót bông màu đỏ sẫm, nổi bật khuôn mặt thanh tú, xinh đẹp của cô gái 15 tuổi, đôi má bà thêm chút phấn hồng. Bà đưa cô đi xem kịch ở nhà hát lớn, tối tối lại đọc truyện cho cô nghe. Các truyện trinh thám, mới đọc được nửa chừng , cô đã đoán ra kết cục, không muốn nghe nữa. Những chuyện tình cảm thì thường là buồn, kết thúc bi đát, bà không muốn cô thêm nặng lòng vì những chuyện không đâu. Cuối cùng, chỉ đọc truyện cổ tích và chuyện cười. Cứ như thế, hằng ngày bà đi mua đồ gỗ cũ về nhà sơn hoặc đánh véc ni lại, cho sửa chữa chút ít rồi bán giá rẻ cho những gia đình mới “hồi cư” về Hà Nội, cũng tạm đủ tiền ăn hằng ngày. Tiền thuốc men chữa bệnh tốn kém nhất thì đã có bà em lo. Nhưng rồi cũng chỉ cầm cự được gần hai năm thì cô gái mất, đám tang toàn hoa loa kèn trắng.

Ít lâu sau, ba đứa con nương nhờ bà ngoại cũng về đoàn tụ với gia đình. Cô con cả đi làm cho bà em ở hiệu thuốc, còn hai em trai, bà lo tìm ngay chỗ học cho con. Lỡ năm học, đành vào học trường tư. Lại thêm một khoản tiền phải chi. Bà bỏ nghề bán đồ gỗ cũ chuyển sang mở cửa hàng may y phục phụ nữ và trẻ em. Được mấy năm thì nghe tin Hà Nội sắp giải phóng. Bạn bè, bà con đến khuyên gia đình bà nên đi Nam “để tránh cộng sản”, chí ít, cũng nghĩ đến tương lai các con trai mà cho chúng đi. Bà vẫn quyết định cả nhà ở lại. Lý do thật đơn giản mà vững chắc: Bà chờ chồng về… Mấy ngày trước khi Hà Nội giải phóng, đọc các tờ rơi kêu gọi đồng bào chuẩn bị đón quân ta vào giải phóng thủ đô, bà cho may thật nhiều cờ đò sao vàng, bày ở tầng dưới quầy. Có tối, lính Tây mũ đỏ say sỉn sau khi nốc rượu ở quán gần nhà, vào cửa hàng, thấy có bày bán cờ đỏ sao vàng chúng hỏi. Thì bà thản nhiên đáp bằng tiếng Pháp: “Cờ của nước chúng tôi đó…” Chúng nghe, rồi xua tay, bỏ đi, không gây gổ gì. Cà nhà và hàng xóm nữa, ai cũng sợ. Còn chính bà Giá, sau này nói với mọi người là không hiểu sao lúc ấy mình không sợ mà lại dám nói như thế.

Rồi Hà Nội giải phóng, cả nhà bà vui mừng cùng đồng bào thành phố đón quân ta về, mong ngày đoàn tụ với người thân mười năm xa cách. Tối nào bà cũng đi họp phụ nữ, con cái thì đi họp thanh niên, thiếu nhi mong hiểu thêm về chế độ mới. Rồi cháu đích tôn của học giả Phạm Quỳnh là Phạm Vinh về, là bộ đội văn công. Và em trai Phạm Khuê cũng về thăm, là đại úy quân y. Cuối cùng là Phạm Tuyên, từ Khu học xá trung ương tận bên Trung Quốc cũng về. Theo nếp cũ gia đình, hễ họp nhau là cùng hát. Nhưng là những bài hát mới do những người mới về dạy cho. Có cả bài Liên Xô, Trung Quốc lời Việt.

 Vui thì cũng vui nhưng chưa trọn vẹn. Chồng bà vẫn chưa về, mà cũng chẳng có tin tức gì. Bấy giờ, bà mới nghĩ là sao lại không viết thư hỏi người đồng nghiệp dạy cùng trường Thăng Long với chồng ngày xưa, nay đã là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà bảo con viết thư gửi đại tướng hỏi xem nay chồng bà ở đâu, xin cho biết tin. Thì ít lâu sau, nhận được thư trả lời của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Nhân Dân Việt Nam: Một bản in sẵn, chỉ điền tên người vào. Đại ý: Xin gia đình vui lòng cho biết đồng chí Tôn Thất Bình, nhập ngũ ngày nào, tại đâu và trực thuộc đơn vị nào…. Thế là tiêu tan hy vọng! Rồi sau đó, có việc truy quét thổ phỉ Bắc Hà, bà lại nhờ người quen ở Mặt trận Tổ Quốc dò hỏi hộ trong số người bị chúng bắt và sử dụng có chồng mình không. Nhưng tất cả đều vô vọng. Gia dinh ba Pham Thi Gia

Cô con lớn , làm cho bà em cùng theo vào Nam giúp việc dì nơi đất mới, với hy vọng chỉ hai năm sẽ lại về với mẹ nhân hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Genève.

Nay thì đã vắng tin chồng, lại bặt tin con. Tuy vậy, bà vẫn hòa nhập vào cuộc sống mới đầy khó khăn vất vả. Có cái máy khâu, bà góp vào hợp tác xã may gia công, hằng ngày đi bộ hai buổi đến nơi làm việc. Tối lại họp phụ nữ, làm đại biểu phụ nữ khu phố. Chủ nhật thì làm vệ sinh viên, lo tiêm chủng, săn sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, còn tham gia lao động chân tay, dùng chảo nhà mang đi múc bùn hôi thối góp phần xây dựng công viên Thống Nhất, đi quét rác làm đẹp thành phố.

Rồi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, bà theo hợp tác xã lên Hà Bắc sơ tán, tiếp tục sản xuất, cứ mỗi tháng đều cố về Hà Nội một lần “cho đỡ nhớ” và thăm con trai thuộc ngành giao thông vận tải, vẫn làm việc tại Hà Nội. Có lần bà đem cả một con gà mình nuôi, rán lên, làm món trộn thật ngon lành cho con trai sống một mình, ăn cơm tập thể. Nhưng anh con dăm hôm sau mới về nhà, thấy mấy hàng chữ phấn trắng mẹ viết trên mặt bàn lúc hai giờ sáng là “đã đến giờ phải ra tàu lên Hà Bắc, không đợi con được, chúc con ăn ngon miệng món con vẫn thèm”. Bên cạnh đó là một dĩa rau trộn héo úa và đĩa gà rán đã lên meo bông trắng.

Thời gian hợp tác xã may sơ tán lên Hà Bắc, bà Giá vẫn làm thêm nhiệm vụ vệ sinh viên như khi công tác phụ nữ đường phố. Bà phát thuốc, tiêm chích thuốc thông thường, chữa cảm, cúm, mỏi mệt hoặc sơ cứu các vết thương… Một lần Mỹ bắn phá khu vực hợp tác xã, có xã viên và cả dân làng bị thương, bà đều đem  túi thuốc đến cấp cứu kịp thời. Từ băng bó đến ga rô cho máu ngừng chảy, kịp thời sơ cứu để đưa lên tuyến trên an toàn. Mặc bom rơi, đạn bắn, bà vẫn làm nhiệm vụ đúng với lương tâm người làm nghề thuốc, dù chỉ là một vệ sinh viên bình thường, không hưởng lương. Có người hỏi vì sao bà bình tĩnh được trong những hoàn cảnh như vậy, bà bảo lúc đó tôi chỉ biết có người bị thương, bị đau, không thấy gì khác. Rồi bà kể chuyện năm xưa khi con gái thổ huyết giữa đêm lạnh. Ai cũng cảm mến bà. Và phục nữa. Dù bà không bao giờ đạt năng xuất cao hơn người.

Đến cuối năm 1972, Mỹ ném bom B52 rải thảm Hà Nội thì gia đình bà lại… đoàn tụ ở thủ đô. Các con xin bà thôi việc ở hợp tác xã, về nhà lo mấy bữa ăn cho các con. Bà xin về. Khi thanh toán thì hóa ra những lần về Hà Nội, bà đều có vay một ít tiền, nay tính lại số tiền ấy gần bằng tiền hóa giá cái máy khâu. May mà còn đủ tiền cho bà mua vé tàu về nhà. Bà rất mừng là không phải vay mượn vào ngày chia tay Hợp tác xã.

Hằng ngày, các con đi làm sau khi ăn bữa sáng tuy đạm bạc nhưng nóng hổi, ngon lành do bà chuẩn bị từ sớm. Sau đó, bà đi Pham Thi Giamua thực phẩm ở các điểm bán hàng dã chiến, người bán hàng ngồi ngay trên miệng một hố cá nhân tránh bom. Một tối, bà khoe với các con là đã tìm được một điểm mua không phải xếp hàng, chỉ phải gọi một tiếng là có người bán hàng ngay. Các con hỏi và kinh hãi khi bà cho biết bà “mua thực phẩm ở ngay đầu cầu Long Biên. Ngay trên tầng cao của cầu đã có bộ đội phòng không sẵn sàng tay súng thường trực, không phải lo máy bay”.

Rồi Hiệp định Pari, hòa bình lập lại trên cả nước. Đám cưới con trai út của bà đón dâu bằng ba chiếc xe đạp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đi một xe. Con trai thứ đèo một bà bạn bà. Con trai út đón cô dâu. Bữa ăn đón dâu do bà và bà bạn nọ cùng vợ chồng con gái út chuẩn bị.

Sau ngày đất nước thống nhất, con trai cả và út đều đã có gia đình, con cái ở Hà Nội. Con trai thứ chưa vợ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Con gái về quê chồng Bạc Liêu cùng các con. Bà lần lượt sống với bốn con, bao giờ cũng cố gắng có mặt lúc các con cần mình nhất như khi sinh con hoặc cưới.

Những năm cuối đời, bà sống ở Bạc Liêu cùng con gái út, lại lo cho con cháu đến hết đời. Bà bảo: “Không gì vui bằng khi trông thấy đứa cháu nhỏ mỉm cười sau cơn sốt hầm hập kéo dài”. “ Mẹ không cần Tết, đối với mẹ khi nào các con sum họp thì đó là ngày Tết của mẹ rồi”

Bà có cái thú là viết thư cho chị em và các con. “Viết thư, mẹ thấy như được gặp mặt và trò chuyện với những người thân yêu vậy.” Chính nhờ những lá thư đó và tấm lòng kính yêu vô hạn của bà với thân phụ mà nhà báo Phạm Tôn mới có tài liệu sinh động, cụ thể, tỉ mỉ để viết nên những trang gây xúc động lòng người đăng trên các báo Xưa và Nay ( Người nặng lòng với nước), Công giáo và Dân tộc (Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước), Nghiên cứu và Phát triển (Người nặng lòng với nhà) và  nhà báo Nguyễn Trung có bài trên Công giáo và Dân tộc ( Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta). Thư bà viết bao giờ cũng đem lại niềm vui sâu đậm cho người nhận.

Bà còn có tài kể chuyện sinh động đến mức có chuyện thế này: Các bạn xã viên cùng bà đi dự một đám cưới con một bà bạn cùng phân xưởng. Hôm sau đi làm là nài nỉ bà kể lại cho họ nghe chuyện đám cưới mà chính họ cùng dự với bà hôm trước. Để rồi cười trước cả khi bà sắp kể đến những đoạn vui trong đám cưới đó. Thành ra, thật không phải nói quá là bà có gien văn nghệ cha truyền. Vì lo cho cha, chồng, con, cháu mà bà hy sinh hai tài năng của mình là viết văn và diễn kịch. Chỉ còn là những tài lẻ, sở thích đem lại niềm vui cho mọi người thân. Cả trong và ngoài gia đình bà.

Chẳng thế mà nữ sĩ Tương Phố (14/7/1900-8/11/1973) tác giả Giọt lệ thu nổi tiếng một thời lại gắn bó thân thiết với bà. Xuân Quý Tị 1953, nữ sĩ đã viết tặng bà bài Âm thầm lòng em trên giấy mỏng, đóng thành một quyển sách nhỏ. Bài thơ gồm hai câu mở đầu và mười khổ, mỗi khổ bốn câu, chữ cuối câu cuối khổ này lại là chữ mở đầu của câu đầu khổ sau, cứ thế cho đến hết. Trong bài, có những câu:

Con dại một bầy ăn học dở

Mình em kiêm mẹ lại kiêm cha

Năm trôi lận đận chỉ vì con!

Con lớn, con khôn, mẹ héo hon.

Mai mốt sân hòe dù nảy quế,

Trăm năm nghĩa cả có vuông tròn?

Trang 0 (am tham)

(…)

Tuong pho_Am Tham Long Em 2

Trang đầu và khổ thứ 10 của bài thơ

 Kỷ niệm 10 năm ngày mất bà Phạm Thị Giá (16/12/2000-2010)

D.T.

Tháng Tám 27, 2019

Ngay trước ngày quốc khánh đầu tiên, Hồ Chủ tịch đã tiếp hai con gái học giả Phạm Quỳnh

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 3:47 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười hai, kỳ 1 tháng 9 năm 2019.

NGAY TRƯỚC NGÀY QUỐC KHÁNH ĐẦU TIÊN,

HỒ CHỦ TỊCH ĐÃ TIẾP HAI CON GÁI HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH

Dã Thảo

Trong  những ngày Cách Mạng Tháng Tám đang diễn ra sôi nổi khắp nước ta, mặc dù bận trăm công nghìn việc “quốc gia đại sự”, vậy mà ngay trước ngày Quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chủ tịch vẫn dành thời gian vốn rất ít ỏi để tiếp hai bà con gái lớn của Phạm Quỳnh xin gặp Người sau khi biết tin cha bị bắt tại Huế.

Trong tư liệu VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI Ho Chu tich.pngTHƯỢNG CHI – PHẠM QUỲNH (viết ngày 8/12/2008, tại Hà Nội) mà nhà văn Sơn Tùng đã có nhã ý ký thác cho nhạc sĩ Phạm Tuyên, có viết:

“Ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đến làm việc tại Bắc Bộ phủ, 12 phố Ngô Quyền. Một phái đoàn Trung ương – ông Nguyễn Lương Bằng, ông Trần Huy Liệu, ông Cù Huy Cận đã vào Huế dự lễ vua Bảo Đại thoái vị. Hôm phái đoàn lên đường rồi, Hồ Chủ tịch mới về Hà Nội, như chợt nhớ, Người nói với ông Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng – Tổng chỉ huy quân đội – Bộ trưởng Bộ Nội vụ; ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; ông Lê Giản- Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam, Vũ Đình Huỳnh: “Chú Bằng (Nguyễn Lương Bằng), chú Liệu (Trần Huy Liệu), chú Cận (Cù Huy Cận) vô Huế rồi mình mới về thì đã trễ, giờ chú Nam (Hoàng Hữu Nam) hoặc xem có ai thay được chú Nam vô Huế gặp Cụ Phạm Quỳnh, trao thư tôi mời Cụ…” (Chúng tôi nhấn mạnh – DT).

Hai hôm sau, ông Hoàng Hữu Nam đến báo cáo với Hồ Chủ tịch: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt (Chúng tôi nhấn mạnh – DT), hai người con gái của ông ở Hà Nội, gặp tôi thổ lộ việc này”. Hồ Chủ tịch để điếu thuốc đang hút dở xuống gạt tàn, nói lửng: “Bất tất nhiên”! (Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội 1992) thì Bất tất nhiên có nghĩa là: “Không nhất định phải như thế, có thể ra cách khác được.) (Chúng tôi nhấn mạnh – DT). Người hỏi ông Hoàng Hữu Nam:

– Hai chị ấy tên là gì?Hoang Huu Nam Phan Boi.png

Ông Hoàng Hữu Nam trình bày:

– Dạ…Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức, thưa Bác.

– Chú mời hai chị em cô ấy gặp tôi, chú Tư (Vũ Đình Huỳnh) sẽ sắp xếp ngày giờ gặp…

Ông Hoàng Hữu Nam tươi cười kể lại với Bác là chị Giá, chị Thức bày tỏ xin được gặp Cụ Hồ, nhưng chưa dám hứa chắc vào lúc nào…

Sau buổi làm việc này, ông Vũ Đình Huỳnh trao đổi với ông Hoàng Hữu Nam, Hồ Chủ tịch sẽ tiếp “thân nhân Cụ Phạm” vào cuối buổi sáng ngày 31/8/1945 tại phòng khách Bắc Bộ phủ.

Ngày 31/8/1945, buổi sáng Hồ Chủ tịch rà xét lần cuối bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.

Ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng ban tổ chức ngày lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 và bốn người nữa đến báo cáo với Hồ Chủ tịch về công việc chuẩn bị cho ngày lễ…

Đến 10 giờ 30 phút, ông Hoàng Hữu Nam báo với ông Vũ Đình Huỳnh: “Đã mời thân Vu Dinh Huynh va Ho Chi Minh.pngnhân Cụ Phạm đến, đang ở phòng khách…”. Cụ Vũ Đình Huỳnh khi kể lại với tôi sự việc này, cụ nói trầm trầm như tâm sự: “Tôi nghe danh ông Phạm Quỳnh từ một bỉnh bút, chủ nhiệm, chủ bút báo Nam Phong và Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức. Có đôi lần nhìn thấy ông khăn xếp áo the, kính trắng đi từ trụ sở Nam Phong phố Hàng Da, qua Hàng Bông đến trụ sở Khai Trí Tiến Đức, phố Hàng Trống, bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi có biết chị Phạm Thị Giá, vợ giáo sư Tôn Thất Bình dạy Pháp văn ở trường Thăng Long cùng với cụ Phó bảng Bùi Kỷ, dạy Hán văn; các giáo sư Hoàng Minh Giám dạy Pháp văn, giáo sư Đặng Thai Mai dạy Pháp văn, giáo sư Võ Nguyên Giáp dạy văn, sử, địa, giáo sư Vũ Đình Hòe dạy văn, giáo sư Nguyễn Xiển dạy toán, lý… Còn chị Phạm Thị Thức là vợ bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cùng quê Nam Định với tôi, lại còn thân thuộc nữa. Cho nên, cái phút giây tháp tùng Hồ Chủ tịch đến gặp chị Giá, chị Thức tôi bùi ngùi thấy hai chị rụt rè, sợ sệt, chỉ một thoáng, hai chị xúc động mạnh trước cử chỉ Hồ Chủ tịch cầm tay hai chị thân tình, an ủi và mời ngồi vào ghế đối diện với Người. Người nói:Bac bo phu.png

– “Tôi ở chiến khu Việt Bắc mới về Hà Nội, nghe tin chẳng lành về Cụ nhà ở Huế…”. Hồ Chủ tịch ngừng giây lát, nói tiếp: “Trong lúc cuộc khởi nghĩa bùng nổ khó tránh được sự lầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi đang trên đường về Hà Nội (ngày 22/8/1945, Hồ Chủ tịch rời Tân Trào, Tuyên Quang). Chị Phạm Thị Giá trình bày sự việc cha bị bắt trong lúc đang làm việc tại nhà…Chị Phạm Thị Thức hai tay nâng phong thư lên Bác, Người nhận và chuyển sang tay cho tôi, dặn: “Chú chuyển sang Bộ Nội vụ”. Bác thân mật hỏi han hai chị em về tình hình gia đình ở trong Huế, ở Hà Nội…. Và “Những việc hai cháu vừa đề đạt, hai cháu sẽ trực tiếp gặp ông Hoàng Hữu Nam, Bộ Nội vụ nhá…”.

Đồng chí Bảy (Luật sư Phan Mỹ) Đổng lý văn phòng vào thỉnh thị Chủ tịch… Người đưa tay cầm chặt bàn tay chị Giá, chị Thức: – “Hai chị em về nhá, tôi có việc khẩn…”

Việc hai người con gái đầu của Phạm Quỳnh xin và được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ sáng ngày 31/8/1945 đã được chính người chị là cụ Phạm Thị Giá sau này thuật lại tỉ mỉ như sau trong bài của nhà báo Phạm Tôn Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, cơ quan của Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, số 140, tháng 8/2006, từ trang 99 đến trang 116, và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 267, tháng 9/2006, từ trang 15 đến trang 20.

Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị bắt, các bà Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức là hai con gái lớn Pham Thi Gia.pngcủa ông, đến văn phòng Bộ Nội vụ tìm gặp người quen là ông Hoàng Hữu Nam, tức Phan Bôi,bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Chánh văn phòng Phủ Chủ tịch, xin cho vào Huế đón mẹ và các em ra Hà Nội. Ông Nam khuyên không nên vào trong lúc này, vì nhân dân đang nổi dậy, vào có khi lại bị bắt giữ lôi thôi, không có lợi. Muốn đón cụ bà và gia đình ra thì để ông “” vào trong ấy. (Sau đó, gia đình đã được đưa ra Hà Nội an toàn.)[i] Còn nếu muốn gửi thuốc men cho cụ ông thì cứ gói lại và đề ở ngoài là gửi cho “Thầy tôi”, tự ông sẽ cho chuyển đến tận tay. Hai chị em cũng được ông Nam giải thích rõ là: “Vì nay bọn Pháp đang tìm cụ để lợi dụng, nên chúng tôi giữ cụ lại nơi yên ổn thôi.” Hai chị em còn ngỏ ý xin được gặp cụ Hồ. Ông Nam nhận lời sẽ bố trí một hôm nào đó cho được gặp “ít phút thôi, trình bày ngắn gọn, kẻo Cụ ít thời giờ lắm.” Thái độ thân ái chân tình của ông Nam khiến hai bà cảm động và yên lòng, tin tưởng ở cách mạng.

Sau đó ít ngày, có giấy của Bộ Nội vụ báo Cụ Hồ nhận tiếp hai chị em vào 11 giờ ngày thứ sáu 31/8/1945, tại Bắc Bộ Phủ. Hai bà được đưa đến chờ ở một phòng rộng, lòng hồi hộp, lo lắng và sợ hãi nữa. Một lát sau thì Cụ ra, mặc áo kaki, đi dép lốp, đi đứng nhanh nhẹn; có ông Vũ Đình Huỳnh là thư ký riêng theo sau. Hai chị em đứng lên chào Cụ, Cụ bắt tay và mời ngồi. Cụ hỏi thăm thì hai chị em trình bày việc cha bị bắt và trình lên Cụ một phong thư kể rõ sự việc. Cụ Hồ nói: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” (Chiều 26/8/1945, Hồ Chủ tịch mới về đến Hà Nội, nhà số 48 phố Hàng Ngang).[ii] Cụ còn hỏi thăm gia đình được bao nhiêu anh chị em. Rồi cầm phong thư đưa cho ông Vũ Đình Huỳnh và nói: “Tôi sẽ chuyển qua Bộ Nội vụ.” Lúc đó, có người báo có đoàn đến xin gặp Cụ. Hai chị em đứng lên chào Cụ thì Cụ lại bắt tay một lần nữa rồi mới đi… Chuyện xảy ra đã lâu, mà đến năm 1988, đã 75 tuổi, cụ Phạm Thị Giá còn nhớ rõ từng chi tiết như vậy. Lòng nhân ái của cán bộ cách mạng và chính Cụ Hồ đã khiến hai chị em ngày ấy cảm động, quý mến vô cùng. Sau này lại càng khiến hai bà không sao hiểu nổi những sự việc đau lòng xảy ra sau đó.”

Điều này chứng tỏ đã là sự thật thì trước sau gì cũng được xác nhận từ các góc nhìn của những nhân chứng rất khác nhau. Thời đầu Cách mạng thật trong sáng. Chính quyền và nhân dân thật gần gũi. Người đứng đầu chính quyền Cách mạng lúc ấy dẫu bận trăm công nghìn việc, vẫn sẵn sàng, chân tình tiếp và lắng nghe tiếng nói của người dân, dù họ “thuộc diện có vấn đề”, không hề né tránh, để những bức xúc của người dân rơi vào “sự im lặng đáng sợ” như sau này.

Bức thư mà hai bà đưa cho Hồ Chủ tịch là do Phạm Khuê, con trai Phạm Quỳnh, hồi ấy còn là sinh viên trường Y Hà Nội, chấp bút viết theo ý của cả ba chị em, sau khi nghe tin cha bị bắt ở Huế. Sau này ông trở thành bác sĩ, đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, giảng viên trường đại học Y Hà Nội, rồi Viện trưởng Viện Lão Khoa Việt Nam, Hội trưởng đầu tiên của Hội Người Cao Tuổi Việt Nam, được phong Nhà giáo Nhân dân, là đại biểu Quốc hội khóa X ứng cử tại quê cha Hải Dương với số phiếu cao nhất. Bấy giờ, nhạc sĩ Phạm Tuyên mới 15 tuổi, sống với mẹ và gia đình ở Huế, sau mới ra Hà Nội ở với chị cả Phạm Thị Giá.

————————————

[i] Những người trong gia đình Phạm Quỳnh từ Huế ra Hà Nội đến ở nhà số 5 phố Hàng Da hồi đó gồm có: vợ Phạm Quỳnh, con cả Phạm Giao và bà vợ hai cùng ba người con là Quý (5 tuổi), Kim (3 tuổi), Loan (2 tuổi), Phạm Bích, Phạm Khuê, Phạm Tuyên (15 tuổi), Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ, Phạm Tuân (9 tuổi), Phạm Thị Viên (7 tuổi). Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, giao thông còn khó khăn, tình hình xã hội chưa ổn định mà đưa được một số người đông như thế (trong đó có năm trẻ em dưới mười tuổi) vượt nửa đất nước ra đến Hà Nội an toàn, mạnh khỏe, đồ đạc mang theo nguyên vẹn, chính là nhờ sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng non trẻ, do chính ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) đã thực hiện lời hứa “tư” vào trong ấy giải quyết.

[ii] Vũ Kỳ: Nhớ mùa thu năm ấy,báo Nhân Dân, ngày 2/9/2000

D.T.

Tháng Sáu 27, 2019

Chuyện một người cháu ngoại – Phụ lục (Thư gửi bạn Ngô Thị Hòa)

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:07 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười hai, kỳ 1 tháng 7 năm 2019.

Chuyện một người cháu ngoại – Phụ lục

THƯ GỬI BẠN NGÔ THỊ HÒA

Phạm Tôn

Lời dẫn của Phạm Tôn: Cụ Ngô Thị Hòa là vợ cụ Đoàn Di (sinh 1937) bạn học với tôi những năm cuối trường trung học phổ thông Chu Văn An Hà Nội, ra trường năm 1958. Cụ Hòa thường viết thư cho tôi, nhất là những khi cụ đọc được các bài về Ông ngoại Phạm Quỳnh của tôi đưa trên blog hay đăng trên các báo. Những năm cuối đời, cụ bị loãng xương ở giai đoạn cuối chỉ ngồi trên giường mà viết cho tôi một lá thư cũng làm cụ rất mệt, nhưng cụ vẫn viết đều đều. Thư cuối gửi tôi, cụ viết những lúc mệt mỏi quá, chán nản, chỉ muốn chết cho xong thì tôi lại lấy lá thư ông viết cho tôi vẫn treo ở đầu giường, đọc xong thì thấy thư thái ngay…  Vợ chồng tôi thật cảm động trước tình cảm của cụ. Bao giờ cũng cùng đọc thư cụ, một người bạn chân thành, chí tình.

Lá thư ấy như sau, chúng tôi xin mời các bạn cùng đọc. Chúng tôi cũng may mắn được em gái gửi cho bức ảnh hai cụ và một cháu nội chụp hồi tháng 7 năm 2007.

Ngo Thi Hoa Doan Di

—o0o—

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12/6/2008,

   Bạn Hòa quí mến,

Cứ mỗi lần có bạn kết hôn là tôi lại vui mừng vì mình sẽ có thêm một bạn mới. Và năm mươi năm qua, tôi đã có bạn Ngô Thị Hòa, người phụ nữ ít nói, có cặp mắt một mí, hiền và “nói nhiều” như mắt các cô gái Nhật Bản nổi tiếng chiều chồng. Các cụ ta xưa chẳng nói rồi đó sao… Muốn sướng cái thân thì “Ở nhà Tây, Ăn cơm Tàu và Lấy vợ Nhật”. Tôi cứ bảo ông Di khôn, chọn lấy bà nên sướng cái thân.

Tôi nhớ hồi mỗi tháng cán bộ được 250g thịt, tôi bàn với gia đình thịt để trẻ con ăn, còn người lớn chỉ ăn mỡ khi xào rau thôi. Thế mà một hôm tôi đến nhà 30 Nguyễn Du gặp ông ấy, tôi hỏi ngay bà đâu thì ông ấy gạt cái điếu cày sang một bên cho rộng mặt bàn rồi bảo: “Bà ấy đang rán chả xương sông cho tôi nhắm rượu…” Vẻ đầy tự hào. Tôi không uống rượu, nhưng cũng say với cái tình của bà đối với ông.Le Dang Quang va Thanh Trung.png

Có lần tôi ở Sài Gòn ra, rủ Lê Đăng Quang đến nhà, không gặp cả vợ lẫn chồng. Bà ngoại các cháu trò chuyện rất cởi mở với chúng tôi đủ thứ chuyện, tôi biết là cụ “câu giờ” để giữ chân chúng tôi, chờ ông bà về. Gần 12 giờ trưa, vẫn chẳng ai về. Cụ nhất định bảo chúng tôi ở lại ăn trưa với cụ, nên hỏi tôi muốn ăn gì cụ làm cho. Tôi nói ngay: “Con ở Sài Gòn ra, trông thấy cà chua Hà Nội đỏ mọng thèm quá, hay là bà cho cháu ăn riêu cà chua với mì sợi được không?” Tội nghiệp, bà cụ mừng ra mặt, tất cả nhà có sẵn, “trong tầm tay cụ”. Thế là chỉ ít phút sau, đúng lúc đói ngấu, hai thằng tôi mỗi thằng ăn liền ba tô. Tôi thấy ngon thật sự và Quang cũng khen là ngon quá, khiến cụ cứ cười mãi.

Hôm trước khi đưa vợ vào Sài Gòn định cư cho đến nay, chúng tôi đến 30 Nguyễn Du chào tạm biệt thì gặp cụ đang bán khoai ở đầu phố. Cụ vui vẻ khi nhận ra chúng tôi, mặc dù bấy giờ đã lên đèn. Cụ bảo vào nhà, có Di ở trong đó, nhưng hai chúng tôi chưa vào mà ngồi cạnh trò chuyện với cụ, không muốn để cụ lỡ việc bán hàng mà cũng là để chờ Hòa về. Trời tối hẳn, Hòa mới đạp xe về, đèo sau một bao tải to. Hòa mời chúng tôi vào nhà, khi ấy bạn mới rỡ cái bao to sau xe ra và cho biết: Lá ở bệnh viện rụng rất nhiều, tan giờ làm, chờ xẩm tối mới gom chỗ lá quét lúc trời còn sáng, đem về nhà đun cho đỡ tốn tiền. Bấy giờ, tôi biết Hòa là Đảng ủy viên bệnh viện, không muốn ai thấy việc làm trong sạch nhưng có vẻ “nhếch nhác” của mình. Hình ảnh ấy vợ chồng tôi nhớ mãi và nhiều lần kể lại cho con trai nghe. Quí và thương Hòa vô cùng. Bấy giờ là năm 1982, sắp đến rằm tháng giêng. Năm 1983, tháng 4 thì chúng tôi có cháu Ti.

Sau này, khi đã “đổi đời” bà vào cùng vợ chồng cháu Tâm, chúng tôi vui mừng thấy bà tóc bạc nhưng còn khỏe. Tôi nhớ mãi lời bà tâm sự chân tình là thật lòng bà chỉ muốn vào đây sống với vợ chồng con Minh thôi, muốn bù đắp cho nó con gái một mình lập nghiệp nơi đất khách. Nhưng tôi cũng biết là bà sẽ không vào vì “không nỡ” để bố con nó ngoài đó. Bà vẫn muốn lo cho ông ấy.

Lần em Nhàn tôi ra Hà Nội, tôi bảo thể nào cũng phải đến thăm anh, chị và mang về cho tôi một bức ảnh có hai vợ chồng. Đến nhưng không được làm như khách; để bà phải ra tay lo liệu, vì qua vợ chồng cháu Minh tôi biết bà không được khỏe. Nhưng thú thật là tôi không ngờ bà lại suy hơn tôi tưởng. Tôi hỏi kỹ từng chút mới thấy là mỗi ngày với bà bây giờ là một sự cố gắng. Cho đến sau Tết năm nay, nhận được thư bà, tôi đọc rồi vợ tôi đọc và cả con tôi nữa cũng đọc; cảm động rớt nước mắt khi nghĩ đến việc bà đã phải cố gắng đến thế nào mới viết được một lá thư mạch lạc như thế, chân tình như thế. Và rõ ràng là lại một lần nữa, bà lo “bảo bọc” cho ông, bênh vực ông, sợ tôi giận…

Tôi mong bà mạnh khỏe hơn một chút, gắng sống để thấy đất nước đổi mới, tiến lên hàng ngày, trong đó cái gia đình nhỏ của bà cũng tiến lên. Nhưng không bao giờ quên được những ngày hai vợ chồng nuôi ba con “ăn sung (lấy ở rạp chiếu phim ngoài trời hồ Thuyền Quang nơi Di soát vé!) “ mặc sướng (Quần áo mặc suốt ngày, đứa nào cũng có một cái dây rút rõ dài buộc lên tận cổ cho khỏi… tụt!), hết lòng chăm sóc mẹ già…

Ông ấy nhờ bà nhiều rồi, bây giờ cũng phải để cho ông ấy… thương bà một chút chứ không ông ấy … buồn đấy bà ạ.

Vì thế, tôi ở xa chẳng thăm nom được gì, chỉ xin chúc bà mạnh khỏe hơn một chút, bớt lo nghĩ đi một chút và càng chúc ông ấy khỏe hơn, để sống lâu hơn bà, còn giúp bà sống dễ chịu hơn.

Tôi nói bà biết, chính tôi cũng muốn có ba con như bà, hai trai một gái. Tên đặt sẵn rồi và cũng được mẹ tôi và vợ thông qua. Đó là Trung, Dũng là tên hai thằng con trai và tên con gái là Khiêm. Ba đức tính tôi quí nhất và suốt đời cố rèn luyện, trau dồi. Nhưng, rút cục, chỉ được một “anh Hai –Út” (vừa là trưởng nam vừa là con út) Đứa đầu bị sảy ở Hà Nội do bà ấy vác xe đạp Phượng Hoàng lên gác ba Kim Liên thăm ông anh bà chị tôi, về nhà thì chảy máu ào ạt. Lại ở có một mình. May mà không chết. Đứa thứ ba, sau cháu Ti, thì năm 1985 mẹ bị ung thư, cắt hết.

Tôi nghĩ gì viết nấy, chữ lại xấu nên phải đánh máy, mong bà thông cảm. Bà cho tôi hỏi thăm ông Di và nhắn với ông ấy là “Dù sao, Di vẫn là bạn tốt nhất của Thành”. Bà có tin là tôi hiểu ông ấy không…?

Bạn cụ… rích

Thành

    Tôn Thất Thành

(22/2/1940-22/2/2022)

6 số 2: số đẹp

Tháng Năm 30, 2019

Chuyện một người cháu ngoại- Giã từ cảng thân yêu (Ra đi khi Cảng hết khói bom đạn)

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:21 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười hai, kỳ 1 tháng 6 năm 2019.

Chuyện một người cháu ngoại

GIÃ TỪ CẢNG THÂN YÊU

Phạm Tôn

  1. Ra đi khi Cảng hết khói bom đạn: 1972

Tối 5/4/1972, lại đến 11 Ngô Văn Sở, gặp cô bạn nhỏ mê sách đang ở nhà, hí hoáy ghi chép gì đó vào sổ tay. Cô mừng ra mặt. Trong khi trò chuyện, mấy lần cô nhắc đi nhắc lại thật nồng nhiệt là nhiều hôm mong anh đến ghê lắm, rất muốn được nói chuyện với anh, mong anh thật đấy…

Đây là lần đầu tiên chúng mình dốc bầu tâm sự với nhau về tình yêu văn học, quyết tâm hiến dâng cả cuộc đời cho sáng tác văn học… Lần đầu tiên cô bạn nói rõ là thấy bất lực, cảm thấy mình dốt, thấy cần phải học, cảm thấy tất cả những gì mình viết trước đây đều là vô nghĩa, là trẻ con và muốn đi làm công nhân… Theo ý tôi thì đây là một chuyển biến đáng mừng. Tất cả mọi trí thức tiểu tư sản đều nên trải qua một giai đoạn tự coi mình là một con số không, con số không tròn trĩnh. Để rồi sau đó sẽ xây dựng lại một cuộc sống hoàn toàn mới. Cần như thế lắm.

Lâu không gặp, cô tưởng tôi đã đi Công trường 71, lúc biết là không đi đâu cả thì có vẻ mừng nhưng không thích lắm.

Vừa lúc đó nhạc sĩ Phương Nam đến chơi. Người nhỏ thó, gầy, đeo kính trắng, áo quần lôi thôi nhếch nhác. Nhưng toát lên một vẻ chân thành, tự tin. Chỉ qua một lời nói trúng tâm lý sáng tác, chúng mình nói chuyện được ngay với nhau như những người bạn thân. Anh bạn kể, sau khi sáng tác ca khúc Rừng xanh vang tiếng ta lư thì về học trường nhạc. Càng học, càng sợ, không dám sáng tác… Vô tình mà cũng đúng cái cảnh cảm thấy bất lực như bọn mình đang thảo luận.

Rồi cô Huệ cùng phòng về, cả bọn lại nói chuyện tầm phào.

Trên tường, treo một bức ảnh Anna Dêgớc mái tóc bạc trắng, rất đẹp. Tuy vậy, cạnh đó vẫn là chàng Étxênhin trẻ con, ngậm tẩu, âu sầu.

Chiều thứ bảy, bạn Long lại chơi vì không hiểu sao lâu nay mình không lại nhà cậu ta, còn báo cho biết bài mình viết về Axtơrốpxki đã đăng rồi. Mình hẹn là lại tiếp tục gặp nhau hội ý vào tối thứ tư. Hôm trước đi ăn cưới em Chi, gặp Minh, đã hẹn mượn buồng của Minh để có chỗ yên tĩnh mà viết, tập thành thói quen viết hằng ngày, tất nhiên đây là lấy ngắn nuôi dài, viết những cái này để kiếm tiền sống mà phục vụ lý tưởng cao xa.

16/4/1972 là một ngày đáng ghi nhớ. 2 giờ đêm báo động kéo dài đến 4:30 sáng, máy bay Mỹ cách Hà Nội 80 rồi 30 km. Sáng, trời đầy mây, ra hiệu sách quốc văn Tràng Tiền chọn sách xong thì báo động từ 9:20 đến 10:00. Về đến nhà, lại báo động. Đài báo tin đêm Hà Nội hạ 5 máy bay, kho xăng Đức Giang bị hại nhẹ. Phố Đội Cấn bị rốc két, 5 người chết. Hải Phòng cũng hạ 5 máy bay, có một máy bay B52. Sáng Hải Phòng còn hạ thêm 5 máy bay nữa. Các lớp học từ lớp 6 trở xuống nghỉ hết. Các hoạt động văn hóa văn nghệ tập trung đông người đều tạm ngừng. Lớp anh Đại học Pháp văn buổi tối cũng nghỉ.

Chiều, mình và em Nhàn (đang ở Hà Nội học sư phạm) đến thăm Hà Khánh Linh một cô em họ mới ở Huế ra. Hiện Linh ở Thái Hà ấp, dinh cơ Hoàng Cao Khải. Linh ra Hà Nội có một mình, tìm đến nhà mình là chỗ họ hàng. Còn mình cũng muốn gặp Linh như tìm đến bạn trẻ cùng ham văn nghệ. Anh em trò chuyện, cùng ăn cơm tập thể có thêm hộp thịt đãi khách. Đây từ lâu đã thành khu sinh hoạt của văn nghệ sĩ, có một số buồng cho anh chị em ở xa về. Trò chuyện đến 19 giờ anh em mình mới ra về . Linh hiểu sâu biết rộng, khiêm tốn học hỏi, sống giản dị mà thoải mái. Khuôn mặt xị ra, trắng bệch vì ốm lâu ngày trong chiến khu, nhưng vẫn giữ được nét duyên dáng dễ thương của con gái Huế… Thế là mình có thêm một bạn cùng chí hướng, một cô em chân thật, dịu dàng.

Tối hôm sau, tạm dừng viết báo kiếm tiền để đọc Xa Mạc Tư Khoa. Vì nghe nói số lãnh đạo mới về Cảng hiện nay đều say mê cuốn này. Đọc để hiểu họ hơn thôi, không phải vì chất văn học của sách. Ngay đến tên tác giả cũng chẳng nhớ. Mà một bộ những ba cuốn.

Thứ năm ngày 20/4, người Hà Nội đi sơ tán rất đông.  Bến xe ga tàu đông nghịt người. Buổi chiều, đi mua sách, phố Tràng Tiền vắng vẻ lạ lùng. Chị bán sách kêu là mọi hôm thì đông đến phát khổ, hôm nay lại vắng đến phát buồn. Ở hiệu sách ra, gặp một cán bộ nhà in báo Nhân Dân, anh chào hỏi vội vàng rồi lên xe hơi của nhà máy đưa đi sơ tán với gia đình. Khoảng hơn 4 giờ chiều thì có lệnh: Ngừng tất cả các lớp học, kể cả các lớp đi thi. Tất cả người già, trẻ em và người không có nhiệm vụ sản xuất chiến đấu đều cần gấp rút ra khỏi Hà Nội. Tối, chị Thanh Vân ở Viện Văn học đến chào đưa các con đi sơ tán. Anh Đại, chị Thủy cũng đến để bàn việc đưa các cháu Ngọc, Hồng, Hải đi Mộc Châu.

Dạo này ở thành phố có rất nhiều tin đồn. Khi thì nói sẽ đánh chỗ này, đánh chỗ kia. Những tin tức vụ B52 đánh Hải Phòng thật ghê sợ. Mỹ đã dùng những thứ súng đạn bom hiện đại nhất để bắn giết những công nhân nhà máy xi măng đang yên giấc ngủ sau một ngày làm việc cật lực, giết những cụ già, em bé… Đài vừa báo tin Quảng Bình hạ chiếc máy bay thứ 3.500. Hiện dang có tin đồn tối nay, đúng hai giờ, Hà Nội sẽ bị oanh tạc. Em Thân ở nhà an dưỡng về hiện đang bắt liên lạc với nhà trường. Mình bảo đi là em đi ngay. Trong những giờ phút này không gì đau khổ hơn khi thấy chẳng góp được gì cho gia đình và đất nước. Mẹ, Nhàn, Hải thì đến ngủ tạm ở nhà dì 47 phố Lò Sũ, ở đó có hầm tốt, còn ở nhà đến cái hố con cũng không có.

Tối lại tiếp tục đọc Thơ văn Nguyễn Khuyến.

Sau mấy hôm gấp rút chuẩn bị, còn trải qua một ngày chủ nhật chờ đợi căng thẳng, lúc nào cũng nơm nớp lo một trận B52 oanh tạc… sáng 24/4 mẹ mình, anh Đại và hai con, em Thân, em Nhàn và cu Hải cùng hai cháu Lương Dung con một gia đình Trung Quốc ở nhà dưới, cộng là 9 người đã lên xe đi Mộc Châu. Chiều hôm trước, mình tổ chức tiễn bằng một bữa miến gà tuyệt ngon, giết hết bốn con gà mình nuôi trong lồng tầng tự đóng, lấy bốn bộ lòng, đầu, cổ, chân nấu miến. Còn thịt cả bốn con gà béo đều kho với gừng hết. Vì lo cho chú em rể Long, đón một lúc 9 con người, gạo lo đã khó, thức ăn mặn thì lấy đâu ra.

Thế là lại như ngày nào: một đèn một bóng. Tha hồ viết. Tất nhiên cũng đọc sách  nữa. Tối thứ bảy, ăn và ngủ ở nhà một công nhân bốc vác, đêm mưa nhà dột, bị ướt. Chủ nhật, thứ hai đem một chú thợ rèn chăm học về nhà cùng ăn, ngủ, đọc sách và trò chuyện linh tinh. Tóm lại là lười, lười vô cùng. Toàn là đọc học không viết gì cả. Vậy mà, hôm qua anh Đại từ Mộc Châu về còn đem cho một lạng cao hổ cốt chú Long tặng. Mọi người trong nhà đều mong mình mạnh khỏe để làm được nhiều việc. Cũng hôm qua, xem  báo Văn Nghệ có một khẩu hiệu đáng chú ý: Học tập giai cấp công nhân, sống đời sống công nhân, viết về đề tài công nhân. Mình nhận đó là khẩu hiệu của mình và kết luận: Không rời Cảng đi đâu cả. Tất nhiên là trừ ra trận. Hà Nội vẫn đẩy mạnh sơ tán và bình tĩnh chờ đợi một trận chiến đấu ác liệt với giặc Mỹ. Đài đưa tin Quảng Trị đã giải phóng 30 vạn dân.

Giữa tháng 5/1972, máy bay Mỹ quấy phá liên miên, ngày nào cũng dăm lần báo động. Nhưng chưa có báo động đêm lần nào. Mình đang cố bỏ ngủ trưa để có thể làm việc được nhiều hơn, mà không ảnh hưởng sức khỏe vì báo động mà mất ngủ trưa. Mình ở bộ phận tuyên truyền, chuyên về viết. Thế là thêm một lý do khiến mình lại không muốn rời cảng. Thanh niên cũng thành lập các đội thanh niên xung kích, có cả những chiến sĩ thông tin, mình muốn được làm việc như Maiacốpxki đã làm hồi ở Rôxta (Thông tấn xã Liên Xô). Mình coi đây là cơ hội tốt để dốc sức phục vụ đồng thời rèn luyện thử thách bản lĩnh, tự kiểm tra về mọi mặt xem có thật là mình có khả năng về văn học không.

Lao vào chuẩn bị tổ chức công tác tuyên truyền tạm ổn, bây giờ lại lo cho học viên thi hết cấp hai. Đầu tháng 9 rồi. Trời nắng gắt. Đêm cũng rất nóng, lại bắt đầu mất điện vài ba ngày một. Nhiều trạm biến thế điện về Hà Nội đã bị đánh phá. Có điều lạ là báo động thì nhiều, nhưng hoàn toàn không thấy địch bắn phá gì. Thành ra dân Hà Nội lại lũ lượt kéo nhau về. Đông nhất là trẻ con. Từ sau 1/6 khắp các phố lại tràn ngập trẻ con đùa nghịch. Diều thả rất nhiều, vướng vào giây điện cũng lắm. Xu hướng của người Hà Nội bây giờ là cứ ở lại Hà Nội mà đào hầm thật chắc còn hơn là đi sơ tán, rắc rối, tốn kém mà cũng chẳng an toàn gì hơn. Các hàng bia vẫn đông hết sức, mặc dù bia được đưa về các nhà máy đã nhiều. Chiều nay đi làm về thấy một dãy có đến hai trăm người kiên nhẫn chờ mua bia dưới nắng gay gắt. Một biểu hiện của tính chất anh hùng hay chỉ là một sự nhởn nhơ vô lối chưa thấy hết tầm quan trọng của tình hình. Tất cả đều như đang chờ đợi, chờ đợi… cố gắng nhận cho ra âm mưu của địch, mức độ của cuộc chiến đấu ác liệt sắp tới. Bên đó, vẫn có những đoàn người tiếp tục lên đường ra tiền tuyến, cầm súng và không cầm súng, nhưng tất cả đều đi chống giặc Mỹ cứu nước. Hai anh em mình cũng đang chờ đợi, cố giữ sức khỏe để khi cần thì lên đường được. Mấy hôm nay, dân Hà Nội chú ý hơn đến báo động. Đã có máy bay địch, có bắn. Hôm nay liên tiếp mấy trận. Ở nhà cũng thấy máy bay rơi… Ở cảng, đã sắp xếp xong kế hoạch học thi. Tối nay, 8/6 bắt đầu đợt ôn thi của lớp 7B. Việc học này dựa vào cái tình của thầy trò chứ hoàn toàn không một mệnh lệnh nào có thể buộc giáo viên đến cảng dạy được. Anh em có thể bị bom đạn ngay trong khi dạy. Đêm qua 11 giờ đã có báo động và toàn thành phố vẫn nghỉ học, không một lớp chính thức nào được học cả.

Hôm nọ, em Thân đến nhà cậu Khuê vào buổi tối, thấy cậu đang ngồi đọc sách, trước mặt là… ba cái đèn dầu nhỏ. Cậu tiếp tục chương trình nghiên cứu, mặc dù đã được phân công đi Thừa Thiên với nhiệm vụ khôi phục trường đại học Y khoa Huế.

Đi đường nghe hai bác già nói chuyện với nhau trong giờ đi làm: thế nào, hôm qua lại đi tiếp tế chứ – 80 cây số cả đi lẫn về. Mẹ cái thằng Ních-xơn. Cứ mỗi lần đạp xe tôi lại đạp một cái vào mặt nó, rõ đồ khốn nạn. Người Hà Nội vui vẻ khắc phục khó khăn, biết rõ kẻ nào đã gây khó cho mình. Báo Văn Nghệ số 452 đăng mấy chương trong Nửa ngày Huế của Hà Khánh Linh. Không hiểu Linh bây giờ ở đâu, mình thật muốn gặp cô bạn. Linh viết theo kiểu đồng hiện, ngoài này chưa quen đọc.

Cuối tháng 6/1972, mình vẫn sống với em Thân, nấu lấy mà ăn bằng bếp dầu. Dầu hỏa bán có ít đi, nhưng các nhà đều chỉ còn ít người nên cũng đủ dùng. Hôm qua, cậu Khuê lại chơi. Bom dội vào bệnh viện Bạch Mai. Cậu kể là buồng làm việc của cậu sập hoàn toàn. Khu Kim Liên cậu ở cũng bị hai đợt bom. Nhà cậu bị nứt, bom rải xung quanh. Có thể cậu sẽ đến ở với gia đình mình. Thế thì thật vui. Chỉ tiếc là nhà đến 13 người mà không có lấy nửa cái hầm, vì ở trên gác.

Hôm nay, 30/6, các quầy bán báo đông nghẹt người chen nhau, tranh nhau mua nhất là báo Quân đội Nhân Dân. Các báo hôm nay đều đăng tin và ảnh bọn giặc lái Mỹ bị bắt trong ba tháng qua trên miền Bắc. Ảnh báo Quân đội to nên nhiều người mua hơn. Tất cả đều 24, 25 cho đến 33, 34 tuổi. Độc ác, xấu xa ngay từ khi mới vào đời, ngay trong những năm tươi đẹp nhất cuộc đời.

Kết thúc tháng 6/1972, cảng cũng có một tin tốt đẹp: Nguyễn Kim Bài giám đốc cũ và quyền bí thư Đảng ủy cảng đang bàn giao công tác để đi nơi khác: Chương I Xa Mạc Tư Khoa căn bản kết thúc.

Ngày 5/7/1972, đang đọc Đại Nam nhất Thống Chí. Đã đọc thuộc hẳn ba bài thơ của Bác Hồ Ngục Trung Nhật Ký, Khai QuyểnHọc dịch kỳ (Nhật ký trong tù, Mở đầu tập nhật kýHọc đánh cờ) thật là thấm thía. Mai sẽ học ba bài mới, cốt học chữ Nho.

Mấy hôm nay, giặc Mỹ đánh phá Hà Nội rất dữ dội. Từ 11:20 đến 13 giờ hôm qua ba trận: Đánh Trường Đại học Bách khoa, khu nhà ở tập thể công nhân nhà máy dệt 8/3, nhà máy magi hoa quả. Đêm nào cũng có máy bay Mỹ lảng vảng trên bầu trời Hà Nội. Dạo này, cứ đi ngang một khu nhà tập thể là người ta lại cảm thấy ngại. Giặc Mỹ chỉ cốt giết người, cốt sao giết được thật nhiều người cho nên chuyên đánh các khu nhà ở tập thể. Hầu như buổi trưa nào cứ sau giờ làm việc là đến giờ Nichxơn đi giết người tại nhà. Trưa nào cũng vài lần báo động. Có lẽ phải chuyển bữa ăn trưa lên sáng mất, nếu không sẽ có hôm nhịn đói đi làm. Cả sáng nay họp bàn chống lụt, khi về, đi dọc sông Hồng thấy hàng nghìn người đang đắp đê, mà đắp to gấp mấy lần mọi năm. Giặc Mỹ đã bắt đầu phá đê.

Mới học thêm ba bài thơ chữ nho nữa là Vọng Nguyệt, Mộ, Tự miễn (Ngắm trăng, Chiều tối và Tự khuyên mình) nói chung là vẫn lười hết sức, chỉ đọc và học, không viết gì cả. Bạn Long nhắc nhiều lần, vẫn ì ra. Lấy cớ các tối chỉ có đèn dầu, mắt lại kém, thứ bảy có điện thì lại là ngày nghỉ nhiều người đến chơi…

Tuần qua, mệt bã người. Suốt mấy ngày chủ nhật, thứ hai, thứ ba, thứ tư cả ngày cũng như đêm đều báo động liên miên. Trời lại oi bức, 39 độ trong nhà. Mãi chiều qua mới được một trận mưa thật to, kéo dài suốt đêm. Trời mát dịu. Hội nghị Pari đã họp lại. Báo động cũng ít dần.

Ba ngày 17 đến 19/7 chữa xong bản thảo Khúc ca chiến thắng viết về anh Phạm Hồng Sơn yêu quí. Chưa hoàn thành, lẽ ra còn phải tăng thêm chất bộ đội, quân sự cho nhân vật chính nữa, nhưng đành cứ chép để đưa anh Thép Mới trong tuần này. Đã chép xong một nửa, coi đây như một bài thi một bản sát hạch, nên cố gắng để thói quen viết lách trở lại rồi sẽ viết thường xuyên về công nhân lao động.

Báo động vẫn nhiều, nhưng không đánh nội thành. Trời vẫn nắng gắt. Đêm đầy sao. Mình và em Thân mang bàn con và đèn dầu ra sân làm việc. Một lát thì hai chú công nhân Trung, Nghiên từ cảng cũng đi bộ 6km đến. Mỗi chú ngồi một bên bàn đọc sách mang theo.

Ngày 20/7, thật bất ngờ, có điện từ trưa. Vì thế đến 23:00 là mình chép xong hoàn toàn, cũng đọc lại lần cuối cùng Khúc ca chiến thắng. Không hay gì nhưng cứ gửi anh Thép Mới, coi như một cách báo cáo: Quả tình trình độ của em lúc này nó chỉ đến thế.

Tối nay đi sinh hoạt câu lạc bộ hội họa của khu Hai Bà, thuộc nhóm biếm họa. Trời vẫn nóng. Vẫn báo động liên miên, chán nhàm  đến nỗi không mấy ai buồn xuống hầm trú ẩn.

Ngày 22/7, từ 10:15 đến 11:00 giặc Mỹ bắn phá khu vực xung quanh cảng. Một xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng hoàn toàn bị san phẳng. Còn bốn quả bom rơi xuống sông. Cảng vẫn bình yên. Tuy vậy cũng có một cán bộ chết vì sức ép, hầm cá nhân tròn đúc bằng xỉ than, bị vỡ.

Tối 26, Mai Văn Sính, nguyên thứ ký công đoàn, nhà đạo diễn của phe tham ô ăn cắp của Cảng, từ biệt anh em lên đường. Như vậy  là Cảng đã loại được những cặn bã chính gây ô nhiễm cả một bến sông Hồng mấy năm nay. Tủ sách công đoàn do mình phụ trách ngày càng có nhiều bạn đọc. Những ngày này, dưới ánh đèn dầu người ta lại đọc nhiều hơn trước và cũng nhanh hơn trước. Mình thì đọc Corilanius, Macbeth, Othello Nhị Độ Mai.

Hai hôm nay, mát trời. Tuy vậy đêm nào cũng vẫn có báo động, thành ra ít đêm ngủ yên giấc. Ăn uống cũng kém hơn. Muối, mỗi người được mua một hào, nước mắm xì dầu đều rất hiếm. Đường đỏ, đậu phụ, bánh mì, mì sợi đều biến mất. Xà phòng mỗi lượt người lược mua hai bánh, chưa cần tem. Dầu tháng 8 vẫn như tháng 7, tháng 6, rõ ràng là một cố gắng lớn. Trẻ con chơi diều rất nhiều. Chiều chiều hàng chục con diều cứ lờ lững trên trời, có con gắn sáo, khung cảnh thật thanh bình.

Chủ nhật 30/7/1972, trời nắng trở lại. Sáng nay, mất điện. Số giờ cung cấp điện giảm nhiều. Nước sông bắt đầu lên to. Em Thân phụ trách bếp ăn của hai anh em không ngày nào không than là khó đi chợ quá. Nước mắm không có. Thức ăn thì cứ rau muống, bí đỏ bí xanh, mướp rồi lại rau muống… Thịt vẫn cung cấp đủ, hai anh em đều tiêu chuẩn mỗi tháng 250g. Thế là còn tốt chán, chưa có gì là gian khổ cả. Chúng mình sẵn sàng chờ những ngày gian khổ hơn, chứ không phải cơm độn ngô xay nhưng vẫn no dạ thế này.

Báo động vẫn thường xuyên, nhưng mà mình ở trung tâm thành phố mà vẫn thoải mái lắm. Hoàn toàn không phải chạy khi báo động. Cũng may, chứ mỗi đợt báo động bây giờ thường cũng kéo dài hơn một tiếng. Mỗi ngày ít nhất cũng năm bảy bận. Không chết vì bom đạn cũng chết vì chạy máy bay. Đọc Chiến sĩ của Nguyễn Khải. Rất sâu mà rất thấm. Rõ là một cây bút đang sung sức, đang tiến những bước vững chắc đến đỉnh cao. Đọc anh bao giờ cũng cảm thấy chân thật, phải tin thôi. Lần này trước mắt người đọc là một Nguyễn Khải trong sáng, chân thành, tế nhị, đầy yêu thương. Tiếc là khẩu ngữ quá nhiều, độ chính xác văn anh chưa cao, sau  này đọc lại e khó hiểu.

Chiều chủ nhật, mình thường đến nhà cô bạn mê sách khoảng giờ này đây. Nhiều khi cũng nhơ nhớ. Nhưng không gặp là ổn nhất. Mình chưa sống được như mình muốn, chưa làm được gì như mình định cả. 32 tuổi rồi còn đùa gì nữa, còn chờ đợi gì nữa. Hôm nọ, anh Đại đến chơi có nói là rất muốn nghiên cứu, nhưng nếu chỉ đi sâu vào một đề tài thôi thì cũng phải hy sinh tất cả các ham thích khác, chẳng còn thời giờ để làm cái gì hết. Anh vốn đa tài, vẽ đẹp, đàn hay, học trò thầy Lương Xuân Nhị họa sĩ nổi tiếng Hà Nội; ghi ta thì tự mày mò học nhưng đã cùng nhạc sĩ Hà Nội chơi ghi ta nổi tiếng Hải Thoại ra chung một đĩa, anh chơi bài Inh lả ơi do anh tự soạn. Nghĩ lại bản thân, mình thấy thấm thía, ít ra cũng đã 16 năm, kể từ năm 1956 dự kỷ niệm Mắcxim Goócki ở nhà hát Nhân Dân với Đỗ Mộng Hoàn, một thế hệ đã lớn lên, mình đã dốc toàn lực, đã đi mọi đường, mà đã đi đến đâu đâu. Cô bạn nhỏ nói đúng: Cần tập trung hơn nữa, tập trung vào những mục tiêu thật cụ thể, thật nhỏ và làm thật dứt điểm. Đúng là hậu sinh khả úy. Phải học cô bạn thôi.

Ngày 1/8/1972, cơn mưa tối đang tầm tã. Mùa mưa đã chính thức bắt đầu, mùa nước lớn cũng sắp đến.

Tối hôm qua, Đài đọc Bản tuyên bố của Chính phủ ta lên án Mỹ ném bom hủy diệt thành phố Hải Phòng (từ 25 đến 31/7) tàn sát các khu phố đông dân như Hồng  Bàng, Lê Chân… Cách đây 15 phút, có báo động Đông Nam Hà Nội cách 80km có máy bay địch. Thế là chúng lại mò đến Hải Phòng lần nữa. Chiều qua, em Nhàn từ Mộc Châu về, 3 giờ sáng nay đã dậy đi vào trường. Em kể mẹ và các cháu ở trên đó rất khó khăn. Ở rừng, xa nước, mùa mưa rét lại bắt đầu. Bà rất gầy mệt mỏi. Các cháu đều ốm. Hải đau răng, Hà hen, Ngọc và Ánh Hồng đều ghẻ lở. Không có mỡ, mì chính, nước mắm… Hà đòi ăn cơm với nước mắm, bị mặn, miệng dộp lên, xót, đau phát khóc lên nhưng nhất định không nhả cơm ra vì… tiếc trong cơm có nước mắm. Ánh Hồng mới hai tuổi, cũng đòi ăn nước mắm. Suốt đêm qua, cứ nghĩ đến bà và các cháu mà không sao ngủ được. Đã chuẩn bị được ba túi sữa bột, nửa lạng mì chính, mai có lương sẽ mua thêm một số đồ cần dùng rồi gửi bưu điện vậy. Có lẽ phải đưa về gần Hà Nội thôi. Trẻ con hai, ba, năm tuổi, bà già sáu mươi, không ai sống yên được với thằng Níchxơn này.

Công nhân cảng mình đi công tác đột xuất, giải phóng hàng ở cách Hà Nội hơn 100km, hạn là 10 ngày, nay đã hơn một tháng rồi, con lợn cuối cùng cũng đã mổ mang đi cho anh em. Sẽ còn phải mang vào vài tạ bí, ở đó cũng như Quảng Bình dạo nào, rất hiếm rau. Cả đội chỉ có hai đảng viên, ba đoàn viên. Đã có những người, và cả từng tổ bỏ việc về Hà Nội. Cảng chưa chuyển mình kịp với tình hình mới. Không chỗ nào, không việc gì là không xộc xệch, lộn xộn….      Pham Duy Phung Pham Tuyen.png

Trưa thứ năm 3/8/1972, bạn chí thiết Phạm Duy Phùng ghé nhà, báo là anh Thép Mới muốn chuyển mình về làm ở ban tư liệu báo Nhân Dân, muốn tận dụng vốn hiểu biết đa dạng của mình. Anh còn ngỏ ý muốn gặp cậu Tuyên để bàn bạc. Mình gặp cậu, cậu cũng bảo là nên đi, ở cảng mãi phí quá. Cuộc đời mình đang ở một khúc chuyển. Dù thế nào, mình cũng vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với Cảng thân yêu để thấy những bước chuyển mình đi lên của cảng. Nhiệm vụ ở Cảng coi như đã hoàn thành. Càng ngày càng thấy rõ là mình chẳng còn lý do gì thật chính đáng để cứ “ở ẩn” mãi ở Cảng.

Mình và em Thân quyết định đón bà và các cháu về. Không thể cứ để tình cảnh này tiếp diễn. Mùa rét này đến ốm quỵ cả già lẫn trẻ mất. Chủ nhật, mưa tầm tã suốt ngày mãi mới nhỏ hạt dần. Đúng lúc mới mưa, sấm chớp đùng đùng, lại có lệnh báo động, đèn lửa phải tắt hết.

(Còn tiếp)

P.T.

Tháng Tư 1, 2019

Chuyện một người cháu ngoại – Tiền tuyến đã rất gần

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:57 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười hai, kỳ 1 tháng 4 năm 2019.

CHUYỆN MỘT NGƯỜI CHÁU NGOẠI

Tiền tuyến đã rất gần

Phạm Tôn

Ăn cơm trưa xong, tôi khoan khoái ra sân, nhìn qua giàn mướp trĩu quả xanh mát ngắm bầu trời xanh ngắt bồng bềnh mây trắng lững lờ trôi. Từ trong một đám mây trắng, hai chiếc máy bay trắng bạc bay ra. Tôi tưởng máy bay ta đi tuần như mọi ngày để yên lòng dân nên gọi mọi người còn trong văn phòng Đội 5 ra xem. Nhưng không phải hai mà ba, bốn rồi năm máy bay tuôn ra từ mây trắng, bắt đầu bắn xối xả xuống cầu Long Biên, một tên lửa cắt đứt một nhịp cầu. Công nhân đội 5 tôi số đông là phụ nữ vẫn tiếp tục làm việc như thường. Hai máy bay Mỹ bị hạ. Hôm sau là 12/8 phải xuống hầm mới làm việc được. Cả ngày bảy máy bay bị hạ, nhân dân Hà Nội hả dạ. Tối về nhà gặp một bạn từ Nam Hà lên chơi, rủ bạn đi xem phố, chẳng mua được gì thết bạn cả. Đêm, ngủ rồi em Thân dạy học ở Đông Anh mới về, phải qua sông bằng tàu há mồm. Hôm sau là chủ nhật văn phòng Đội 5 vẫn làm việc, công nhân thêm tin tưởng, vẫn đi làm đầy đủ. Hơn 11 giờ đêm mới nghỉ. Ven sông tấp nập người người chờ sà lan, tàu thuyền, phà sang ngang mặc dù các phương tiện này vẫn hoạt động cả ngày lẫn đêm. Thế mới biết vai trò của cầu Long Biên lớn đến thế nào.

Tối ngồi hóng mát ở bờ sông với cụ Sán, cụ cho biết là có chuyện bên Đoàn thanh niên xin mình về, chú Tân sẽ thay mình làm việc hiện nay. Mình nói không muốn đi thì cụ bảo nếu anh cố tình ở lại sẽ có khó khăn. Vẫn là chuyện nghi ngờ này  nọ, là điều mình luôn chú ý nhưng chẳng coi là chuyện gì to tát. Lúc ấy cụ mới nói là muốn giữ mình ở lại. Vấn đề của anh… nó tựa như rạng đông ấy. Tốt lắm rồi. Nhưng mặt trời vẫn chưa mọc hẳn. Còn một tí khó khăn nữa. Có anh em bảo tôi nếu còn ở lại đây thì phải giữ anh đến kỳ cùng. Nói chung, anh có tín nhiệm đấy. Nhiều người tin cậy.

Nhớ tối 11, vào nhà Tiến, bí thư đoàn cũ nay là phó thư ký công đoàn cảng. Tiến bảo báo Tiền Phong có xin một người biết dịch tài liệu có trình độ chính trị văn hóa. Công văn xin người còn nằm ở tổ chức.

Nhân một lần anh Nguyễn Văn Hoan nguyên trưởng phòng tổ chức hành chính cảng ghé thăm tại đội 5, mình hỏi chuyện này, anh bảo có lẽ là do anh có mấy lần gợi ý với khu về trường hợp của mình. Anh vẫn áy náy về việc giúp đỡ mình chưa trọn vẹn. Mình nói thật với anh là anh tốt quá, nhưng em chưa muốn rời cảng lúc này. Trừ phi đi Thanh niên xung phong hay bộ đội

Thật ra chiến tranh đã lan tới Hà Nội từ đầu tháng sáu. Tối thứ bảy mồng 3 tháng sáu, mình đã tham dự buổi Tổng duyệt lực lượng thanh niên ba sẵn sàng Thủ đô, tổ chức tại quảng trường trước nhà Ngân hàng. Trời mưa. Hơn 10 ngàn thanh niên đeo súng, ba lô trên vai tay cầm đuốc làm bằng thanh gỗ gắn ống bơ sữa bò trong đựng giẻ tẩm dầu ma dút. Trong khí thế rực lửa anh hùng đó, đại diện công nhân nhà máy điện hứa: Tim chúng tôi có ngừng đập dòng điện của Thủ đô vẫn còn chạy mãi. Rồi tuần hành khắp khu trung tâm đến hai giờ sáng mới về nhà ngủ.

Trưa thứ bảy tuần sau, về Thanh Trì thăm gia đình chị Tửu, suýt ăn bom đạn Mỹ. Một cuộc bắn phá cực kỳ dã man vào khu dân cư ven sông Hồng phía dưới cảng Hà Nội. Xem ra chúng rục rịch đánh cảng. Công nhân làm ở đây phần lớn là người Thanh Trì xôn xao bàn tán. Hôm sau, số người đi làm chưa giảm mấy, nhưng có vẻ lo lắng, thăm dò. Ở ven sông đã có lệnh sơ tán trẻ em và tất cả những ai không trực tiếp sản xuất xuống các vùng xuôi phía dưới. Đội 5 quyết định ban chỉ huy, nhân viên văn phòng và các tổ trưởng không ai nghỉ làm, kể cả chủ nhật, ngày lễ, bà con thấy vậy cũng yên tâm hơn.

Tối 9/9, Nguyễn Xuân An truyền thanh và Đỗ Xuân Bảo lái cẩu đến nhà chơi. An báo một tin quan trọng Đội thanh niên xung phong số 49 của Hà Nội sẽ về Cảng Sông Hồng công tác và mình sẽ được chuyển sang làm công tác văn hóa quần chúng của đội. Nếu quả thật có chuyện đó thì thật hiện nay không có mơ ước gì cao xa hơn. Một giai đoạn mới có thể sẽ quyết định cuộc đời mình từ nay về sau.

Chiều 13/9, mưa rất to, dai dẳng đến tận tối, không đi đâu ăn cơm được. Đành cùng đội phó Nguyễn Khánh Chước và tổ trưởng Trần Văn Mão lục lọi kho của chị Tửu, khắp các thùng, ngăn kéo… để kiếm ăn. Kết quả là cả ba anh em được một bữa no kềnh ăn toàn mì nấu mướp và bột mì rán. Chảo để nấu các món ấy là cái nắp thùng đựng nước lộn ngược. Trời mát lại đói, ăn ngon miệng lạ.

Đang lúc mưa to Tân và Đán đến học tiếng Pháp rất đúng giờ. Đán ướt sũng cả quần mặc dù đã sắn quần cao hết cỡ. Còn Tân, an toàn hơn, mặc áo va rơ bạt và quần đùi cực ngắn, chân đi ủng. Hai bạn thật đáng mến. Đêm ấy, mình về nhà Tân trong xóm Phà Đen ngủ nhường giường cho anh Chước nhà xa. Anh Mão gì thì gì cũng phải về nhà.

Chiều hôm sau, xong việc, anh Chước nói cho mình nghe chuyện anh dự hội nghị xét duyệt biên chế, có đến mấy người nói mình là phần tử Nhân Văn Giai Phẩm, đã viết bài báo gì đó nên đã bị đuổi khỏi tòa soạn báo Nhân Dân. Nhưng những người tham dự đều hỏi có chứng cớ gì không, vì ai biết cũng khen chú ấy là người tốt, tận tâm, hết lòng giúp đỡ mọi người, không nề hà việc lớn, nhỏ gì giúp được là giúp. Rồi hội nghị thông qua việc xét duyệt biên chế cho mình, đúng hai năm sau khi mình vào việc tại Cảng. Lúc đầu làm chuyên trách bổ túc văn hóa và văn hóa quần chúng, sau làm thống kê, kế toán ở các đội sản xuất, nhưng bao giờ cũng dạy học ở các lớp bổ túc văn hóa và dạy các cá nhân ham học tự xin học. Tất nhiên là miễn phí. Trong số người đến học ở đội 5 vào các buổi trưa có một người chăm chỉ nhất, có thể nói là ngoan cố nhất, học bất kể thời tiết thế nào và học xong thì ngồi lại dai nhất, có khi chẳng nói gì mà chỉ ngồi một mình hút thuốc Bêrati của An ba ni. Đó là anh Nguyễn Việt Quốc cùng làm với tôi hồi ở tổ sửa bài Nhà in báo Nhân Dân năm 1959-1960.

Sáng hôm sau, anh Nguyễn Văn Bào bạn bán báo với tôi ngày xưa, nay là phóng viên thể thao của báo dẫn một số anh em trong cơ quan đến đội 5. Hầu hết là người mới, tôi không biết mặt. Tôi giới thiệu các anh với anh Chước nói rõ là các anh đến đây để vác gỗ như bác Sán đã biết, hợp đồng tôi cũng trình cảng vụ, làm xong tôi sẽ đưa anh Bào là đại diện lên tài vụ lĩnh tiền. Anh Chước vui vẻ tiếp, mời uống nước và nói nên làm sớm cho khỏi nắng. Tội dặn các bạn một điều là hồi trước còn đang đi học, anh bạn chúng tôi là Phạm Duy Phùng đã phàn nàn với tôi là vác gỗ xong thì phải tắm mới về được, ai chẳng thế, mà có những thằng cứ cố mặc cái xi líp làm công nhân bốc vác tắm cùng thấy rất khó chịu. Nghe tôi nói, các bạn trẻ cười, riêng anh Bào sống cùng nhà trọ với anh Phùng ở phố Trúc Bạch thì bảo đúng thế, nhớ đừng có tạo sự xa cách với mọi người.

Các bạn cũ vẫn không quên tôi.

17 giờ ngày 30/8, có lệnh tập trung 25 công nhân đi làm nhiệm vụ đặc biệt ở ga Yên Viên. Cụ Sán phải đi vay gạo cho một số người nhà xa ăn tạm. Mình cũng ăn và cùng đi với anh chị em. 19 giờ xuống ca nô, rồi lại lên bờ chờ đi ô tô. Cuối cùng có lệnh về. Mỗi người được một cái bánh mì và nửa lạng thịt kho. Mình và mấy thanh niên về trụ sở ngủ, vừa đi vừa ăn, rất vui. Qua một chuyến huy động thử này thấy rõ nhiều điều. Thanh niên có mặt 100%. Các tổ trưởng tổ phó cũng vậy, kể cả bác Tám mới ốm dậy. Mấy chị to mồm, nổi tiếng là hay thắc mắc cũng đi. Một tổ phó đi đến nửa đường thì lại về, chị ta không muốn đi, vì sợ chết, nhưng lại sợ tổ viên chê cười. Đang lúc ấy lại gặp anh chồng đi làm về, bàn bạc  một lát rồi cả hai cùng về. Lại nhớ hồi tháng 7, tối thanh niên mở hội tòng quân. Người đến lèo tèo vì không biết trước nội dung cuộc họp. Có hôm đến, lại hoãn, hoặc có hôm gặp phải ông cán bộ nói dai, nói dài, nói dại, mất thì giờ mà chẳng được tích sự gì.

Thanh niên cảng lạ lắm, nhất là các cô gái, không thể nhìn bề ngoài mà đánh giá họ được. Một sáng tháng tư, đội I chạy thử băng xích bốc dỡ hàng bao kiện, cô Nguyệt một công nhân 17 tuổi xinh xắn làm ca I, đến 9 giờ thì bị tai nạn. Thịt chỗ dưới bắp chân bị nghiến nát, lộ cả xương. Cô bé không ngất đi nhưng mặt tái mét, lả cả người vì đau đớn mà vẫn không nghe thấy tiếng rên la nào. Chiều hôm sau, tôi vào bệnh viện Phủ Doãn gần nhà thăm em, cho em bông hóa đá mềm mình mới tạc xong với nhiều tâm huyết. May là vết tổn thương không nặng, sẽ không để lại tật nguyền nào. Em tươi tỉnh, rất vui vì được nhiều người quan tâm. Mấy ngày sau đi làm chiều về ghé Trạm xá giao thông vận tải cốt thăm em Nguyệt mong hiểu vì sao một cô gái trẻ như em lại có thể chịu đựng đau đớn thản nhiên như vậy. Tình cờ gặp một chị 34, 35 tuổi đang nằm trạm xá gọi mình nói chuyện thân  mật, tin cậy đến mức mình không dám hỏi tên chị. Rồi chị mời vào buồng, may thay đó cũng là buồng Nguyệt nằm. Nguyệt đã khá tỉnh táo và vui vẻ. Em nói bông hoa anh cho hôm nọ ai xem cũng khen là đẹp. Tôi cầm lấy bông hoa, đúng là có nhiều người xem thật. Cái ngọn lá và phần cong uốn duyên dáng của bông hoa, rất khó làm đã bị gãy. Nguyệt có vẻ tiếc. Mình phải hứa sẽ làm lại những chỗ ấy. Tôi cho Nguyệt mượn một cuốn sách về Ngô Vận Đạc, một Paven của Trung Quốc, rồi về dạy học bổ túc văn hóa ở cảng. Học được độ một giờ thì báo động. Vừa nghe nói máy bay cách 50 km, lập tức thấy nổ súng dữ dội, đường đạn lượn vòng vèo đỏ rực trên nền trời đen sẫm, hệt như pháo hoa… Mười phút sau, định học lại thì có lệnh yêu cầu tan học ngay. Chỉ những ai làm ca đêm mới được ở lại xí nghiệp. Nghe nói chúng nó hẹn đánh cảng ta. Dạo này được một ngày không có tiếng máy bay địch, một đêm ngủ yên là rất quí. Đẹp trời là sẽ có máy bay địch, đến bắn phá. Sau những đám mây trắng bông đã từng tuôn ra hàng đoàn máy bay kẻ cướp.

Hà Nội chuyển sang sinh hoạt về đêm. Các buổi sáng, kể cả sáng chủ nhật đường phố vắng vẻ như sáng mồng một Tết. Nếu không có việc thật cần không ai ra đường làm gì. Các cửa hàng lớn, tất cả các hiệu sách đều mở cửa vào buổi tối. Các rạp chiếu phim đều giảm số vé đi rất nhiều. Chỉ còn bán các hạng vé đắt tiền. Các buổi tối cũng đỡ nhộn nhịp. Chỉ có cửa hàng bia hơi là còn đông khách. Trời nóng quá. Đó cũng là một cách bồi dưỡng sức khỏe rẻ tiền. Ở bến sông, cửa hàng ăn uống đã đóng cửa.

Hằng ngày, sà lan, thuyền vận tải đến cảng Hà Nội ngày một nhiều. Chủ yếu là chở hàng viện trợ của các nước anh em phe xã hội chủ nghĩa: Đường đỏ Cu ba, mì, mỡ Ba Lan, thịt hộp Liên Xô và mỡ thùng ni lông của Rumani.

Hôm vừa rồi, đọc được Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Đã lâu lắm rồi mới được đọc một truyện ngắn hay đến như thế, một bản anh hùng ca rực lửa anh hùng.

Giữa tháng năm, ngày nào cũng báo động hàng chục lần. Kể cả ban đêm. Ngày 19/5, mừng thọ Bác Hồ 77 tuổi, mười máy bay giặc Mỹ đã rơi, có mấy chiếc rơi trên đường phố nội thành. Ngày 21/5 suốt ngày có máy bay xâm phạm. Tôi tận mắt thấy máy bay giặc phóng tên lửa về phía nhà máy điện, nước Hà Nội. Chiều, mất điện cũng mất luôn nước. Thiếu chuẩn bị, người ta đua nhau đi xin nước giếng, gạn những chum vại vô tình còn chứa nước, và kéo nhau ra sông Hồng tắm…

Tối hôm ấy, mình ăn tạm bát cháo rồi ra phố chơi. 19:30 phố Tràng Tiền còn điện. Vào hiệu sách quốc văn mua Trường sơn hùng tráng của Hồng Châu mà mình tin là bút danh mới của anh Thép Mới. Khi sang đặt mua báo Nhân Dân thì điện tắt. Cả thành phố tối om. Người Hà Nội xì xào lo ngại, nhiều gia đình í ới chào nhau đi sơ tán… Về nhà, thắp đèn dầu, đọc sách mới mua thì Tạ Anh Phi đi làm về, đến xin ít nước để uống và rửa chân tay. Mình múc cho Phi một chậu nhôm nước từ cái chum men xanh ngày trước trồng quất cảnh Tết. Cậu ta chỉ dùng một nửa, còn lại trút vào chum. Đến đêm thì đèn lại sáng. Hôm sau nước đã ri rỉ. Tối lại tha hồ tắm rồi. Tát nhiên cái ang to nhà dưới và cái chum xanh nhà mình từ nay lúc nào cũng đầy nước.

Hôm nay, được ngủ một giấc đẫy suốt đêm qua, lại được thêm một giấc ngon lành trưa nay, ai cũng lấy làm lạ. 15 giờ, ta hạ một máy bay trinh sát, mọi người mới thấy yên tâm.

Báo động liên tiếp suốt buổi trưa 30/8. Chú Hưng sống với mình hồi ở căn nhà nhỏ cùng lái xe Nhượng đến chơi. Nấu cơm ăn. Đến tối thì đèn tắt, hai anh em lên nhà máy điện, nơi Hưng và đội bốc vác của chú đang làm việc trên đó. Nhà máy bị phá hủy đang xây dựng lại trông như một pháo đài cổ. Đèn sáng rực. Công nhân nhà máy điện, công nhân kiến trúc đang làm việc nhộn nhịp. Mấy tối nay, nhà máy tổ chức hội diễn văn nghệ sôi nổi. Riêng phân xưởng cơ khí cũng đủ diễn suốt một đêm. Lúc về, qua cầu Long Biên, đèn sáng rực, công nhân làm việc nhộn nhịp, có lẽ cố thông cầu dịp quốc khánh.

Sáng 2/9, chỉ có một lần máy bay đến gần vùng trời Thủ đô. Mình ra trụ sở đội 5, qua các phố xá đông vui, mậu dịch tổng hợp mở cửa, nờm nợp những người là người. Thuốc lá bán tự do. Tối, đi xem phố ngày hội. Phố Tràng Tiền phải cắt ba công an luôn mồm gọi loa yêu cầu giữ gìn trật tự mà đường vẫn hay bị tắc. Vào hiệu sách, cảm thấy vui vì khách rất đông, phải xếp hàng hơn 30 phút mới trả được tiền. Chiều, mưa to. Vẫn có máy bay giặc lởn vởn quanh Thủ đô.

Trưa 10/9, em Hưng lại chơi rủ ra cảng gặp Tuệ người yêu của em. Em không ngờ là mình chưa yêu cô gái nào. Em nói, khi nào anh cũng nghĩ đến mọi người. Ai cũng yêu mến anh, thân thiết với anh. Có lẽ vì thế mình không khi nào buồn nản được, luôn được tiếp thêm sức sống. Tối lại về trụ sở, một mình đọc sách… Có tiếng loa văng vẳng hòa lẫn tiếng sóng dạt dào vỗ bờ, trong đêm đen một ngọn đèn tàu thủy đỏ thắm nổi bật lên… Sao thấy thèm làm việc, thèm được thử thách, chiến đấu, cống hiến lạ.

Tháng 10/1967, chị Thanh Vân làm Viện Văn học ở buồng ngoài cùng nhà mình cho biết là Viện đã mấy  lần cử anh Nguyễn Kim Thản đến gặp mình bàn việc xin chuyển về viện văn học, công tác tại tổ ngôn ngữ. Mình cảm ơn và xin từ chối, chị nói dịu dàng Thế mà chị vẫn nghi là em rất yêu văn học. Mình nói chính vì thế mà em phải từ chối, tự biết mình còn phải học hỏi nhiều. Thi chị nói Ờ, anh Phong Lê cũng nói là chưa chắc em đã thích Mình nhớ có lần mình bộc bạch lòng yêu văn học thì anh có nói là nên đi sâu tìm hiểu chính những con người mình đang sống chết cùng với họ, từ tính cách đến lời ăn tiếng nói không ai giống ai, nhưng cũng có những con người điển hình giống nhiều người mà vẫn có cá tính riêng.

Ngày 24/10/1967, Nguyễn Xuân An truyền thanh đưa cho mình bốn tập Sông Đông êm đềm (1-4) và tập Ruồi Trâu (xuất bản lần đầu). Mình cầm sách nói Tịch thu. An cười rất tươi, cái miệng vốn đã rộng lại càng rộng hơn. Không ngờ đó là lần gặp cuối trước khi bạn bước vào một cuộc đời mới: Bộ đội. Anh chỉ được ghé Cảng 15 phút, không ghé qua nhà gặp mẹ. Lần này đi đột ngột, lại chỉ có một mình.

Sáng 16/11/1967, chị Thanh Vân cho biết tin buồn. Anh Phạm Hồng Sơn thân thiết với mình không còn nữa, báo Quân Đội Nhân Dân có đăng… Mình thản nhiên nghe, vì tự nhiên nhớ lại một lần cháu Dung, con nuôi anh hốt hoảng đến báo tin là nghe nói anh vừa mất. Mình an ủi cháu, bảo cứ bình tĩnh, đừng tin nhảm. Sáng hôm sau mình đi tàu điện vào ngay bệnh viện thăm anh. Mình kể anh nghe tin dữ, anh nheo mắt cười hóm hỉnh: Chết thế nào được Anh vừa nói vừa chỉ vào chồng bản thảo: Còn khối việc đây này. Chết thế nào được.

Nhưng rồi, ăn cơm cũng không yên, vì không muốn ăn, chỉ muốn mau được xem tờ báo chị Vân bảo. Có tiếng rao báo. Mặc nguyên quần áo rách rưới ở nhà, mình chạy vội ra phố. Nhưng báo Quân Đội Nhân Dân hết rồi. Ăn vội mấy miếng rồi lục lại nhật ký, đọc lại những gì ghi về anh. Mình biết lần này thì mình mất anh thật rồi.

Tối, ra trụ sở Đội 5, định lên phòng phát thanh xí nghiệp mượn báo, tình cờ gặp cô Trần Thị Phúc đang khoác chăn dạ trực chiến ở đê. Mình hỏi báo, Phúc lén lấy trộm cho mình một tờ. Mở vội các trang I, rồi trang 4 cũng không có một dòng cáo phó. Dưới ánh trăng rằm vằng vặc, trên trang 3 nổi lên dòng chữ đen: Phạm Hồng Sơn đi trọn con đường của một người cộng sản, không phải là tin mà là cả một bài của Vũ Hồ. Bài báo sơ lược quá, nhưng cũng có chi tiết làm mình xé lòng, rơi nước mắt: Có lần trong cơn đau, anh níu gãy cả những chấn song cửa sổ hoặc : một phần tiền để ủng hộ xã Phương Trung quê anh. Anh dặn kỹ số tiền này dành cho hợp tác xã nào kém nhất và nên dùng vào việc chăn nuôi…. Đó là những ý nghĩ cuối cùng của Phạm Hồng Sơn trên giường bệnh, giữa những cơn đâu dữ dội làm anh mê man. Anh mất hồi 3 giờ sáng giữa năm 1967, mộ chôn ở thôn Phương Trung, Thanh Oai Hà Tây.

Đêm đã khuya, côn trùng nỉ non rả trích, nước sông Hồng cuồn cuộn dâng lên đột ngột. Cầu phao đứt. Thỉnh thoảng mới có tiếng xe vận tải rú vang rồi xa dần. Vắng lặng quá… Dưới ngọn đèn dầu, mình cùng bác Sán ngồi nói chuyện mãi về anh Phạm Hồng Sơn và những người như anh, những người con yêu của dân tộc.

Đêm đã quá khuya lúc nào không hay.

Tối 21/11, ra trụ sở đội 5 nói chuyện với bác Sán. Ban giám đốc mới sắp đưa bác đi học một tháng, sau đó chưa biết thế nào. Mới nghĩ đến cảnh hai bác cháu phải xa nhau đã cảm thấy buồn buồn. Mình giúp bác được quá ít, cũng chưa học được ở bác bao nhiêu. Tối 16/12, hai bác cháu chụm đầu dưới ngọn đèn làm việc. Bác cho biết ban giám đốc có ý định lấy mình làm thư ký riêng, tập hợp tình hình…

18/12 máy bay Mỹ đánh phá cầu Long Biên rất điên cuồng, quyết liệt.  Chúng bay dọc theo cầu mà thả bom. Cầu bị phá hại hơn tất cả các lần trước. Mất hẳn một trụ và đứt mấy nhịp. Nhưng ngay tối hôm ấy, thanh niên xung phong đã làm xong một cầu phao mới, ô tô đi lại được. Có một nhóm văn nghệ ra tận đầu cầu phao hát đàn phục vụ. Người đàn hát và người xem đều đứng trong bóng tối. Số người đàn hát có lẽ cũng bằng số người xem. Anh chị em còn phải đảm bảo thông xe, chỉ thay phiên nhau lên xem thôi. Trong bóng tối, một nữ diễn viên sôi nổi hát bài Cô gái vót chông trong gió rét, hai tay nắm vào nhau duyên dáng. Hôm sau, lại liên tiếp có mấy trận đánh lớn, bom bi nổ liên miên. Hai thanh niên xung phong bị thương nặng. Hai cầu phao vẫn rất đông khách

Cuộc họp toàn đội 5 tối 27/12 thật cảm động. Tất cả bà con phát biểu đều không tán thành giải tán Đội; nêu bật tình cảm tha thiết gắn bó với nhau hơn một năm trời biết bao kỷ niệm vui buồn có nhau. Hôm sau tiếp tục có nhiều tin về việc mình chuyển  công tác, nhưng mặc kệ. Cụ Sán thì yêu cầu mình làm cho cụ một bản tổng kết về Đội 5, chỉ để bỏ túi thôi, chẳng gần gửi đi đâu.

Đầu tháng 1/1968, mình xuống Đội I, tắm và gặp gỡ anh chị em công nhân mới ở nông thôn ra, ai cũng kêu ăn đói, nằm rét và nhớ nhà, chán nản lắm.

Để cả một buổi trưa để tổng vệ sinh căn gác nơi ở mới thành nơi làm việc, học tập. Gác cao, thoáng, lúc nào cũng có tiếng xe hơi, tiếng người. Chỉ cần bước ra sân thượng là thấy sông, thấy tàu, thuyền bè sà lan, những con người đang lao động: công nhân, bộ đội, chủ hàng, các cán bộ lãnh đạo. Buồng nhìn ra ngay cần cẩu cổng lừng lững chuyển hàng. Có lẽ chỉ có một nhược điểm: Có máy bay, báo động chạy không kịp là chết tươi. Vì đây là trọng điểm của khu vực trọng điểm. Công việc chuyên môn ở một đội mới hầu như toàn người mới làm mình mệt phờ. Tối nào cũng 12 giờ, hoặc một giờ, một rưỡi mới đi nằm mà năm sáu giờ sáng đã lại làm việc. Mình ngủ ngay tại phòng này. Cho nên bạn nào có tâm sự cũng tạt vào trút bầu tâm sự. Vui mà mệt quá.

Chiều 29/2/1968, cụ Sán bảo tôi tối nay cùng cụ ra trực ở chỗ cần cẩu cổng, cụ cũng đã báo các tổ trưởng sản xuất và tất cả đảng viên trong chi bộ. Tối gặp nhau, chỉ có hai bác cháu ngồi nói chuyện với nhau một lát, vẫn không có ai đến. Cụ đã vê một điếu thuốc lào, nhưng không hút, bảo tôi về nhà xem còn không hay tan nát cả rồi.

4 giờ sáng ngày 1/3/1968, tôi đang ngủ ở nhà thì nghe tiếng máy bay bay rất sát, rồi có tiếng bom, tiếng súng bắn. Báo động, đến 4:30 thì báo an… Tôi đi làm với ý nghĩ chẳng qua cũng như những lần trước thôi, một nơi nào đó bị bắn phá, còn cuộc sống vẫn tiến hành như bình thường. Không ngờ, đến gần cảng mới được biết là sáng nay, bom Mỹ đã trút xuống đất cảng 18 quả bom, vào đúng khu vực đội I của mình. Mình vào một nhà quen trong khu Phà Đen, gửi gạo xin ăn cơm cả ngày, rồi sang ngay Đội I, không lên xí nghiệp làm công tác văn nghệ như đã định. Một cảnh tan hoang bày ra trước mắt; gạch ngói ngổn ngang, từng dãy nhà kho cao rộng đổ sụp, ngói xô. Phòng làm việc của mình bị bật tung cửa, cái khóa xe đạp vẫn nối hai cánh cửa với nhau cùng văng xuống tầng dưới, vôi vữa gạch ngói ngổn ngang, bàn lật ngược. Cả những khung sà lan lớn chưa lắp ráp cũng ngổn ngang giữa đường. Mình tham gia đào bới khiêng xác các công nhân hy sinh, cảng mất năm người, kho lương thực mất hai người. Chị Bê cao lớn, khỏe mạnh vui tính, chị Tự ranh mãnh hay lảu cảu đùa cợt, anh Lạc, một công nhân mới trẻ khỏe hóm hỉnh, và chị Bé, anh Chuẩn, những công nhân hiền lành, tất cả đều nằm đây, hầu hết đều còn nguyên vẹn, trông như người đang ngủ. Chị Bê đẹp như một pho tượng nữ thần, mặt phủ một lớp bột xi măng và đất mỏng. Chỉ có anh Chuẩn là mất một cánh tay. Tôi khiêng các anh, chị mà sao thấy như khi chết, con người ta nặng hơn khi sống. Số bị thương thì khá nhiều, nhưng không mấy ai bị nặng. Chuyển xác xong, mình phụ Bảo lái cẩu vạn năng cần dài 25m, cùng anh Khiêm kỹ thuật ra ngay chỗ bom nổ chậm thu dọn, cẩu những khoang xà lan ra khỏi mặt đường. Sau đó có thêm anh Thuận chồng chị Tửu và anh Mậu ra cùng làm. Tất cả làm việc hăng say, khẩn trương không hề có ai lo sợ sẽ mất mạng vì bom chưa nổ hết. Chiều đưa tang công nhân. Mình vẽ ngay hai áp phích vào bảng, kêu gọi trả thù cho đồng đội. Hai bảng bày ngay ở phòng ăn.

Sau một đêm yên tĩnh, cảng lại hoạt động bình thường. Trừ đội I, còn bom chưa nổ phải kéo quân đi làm nơi khác. Vào thăm khu ở của công nhân mới, 13 người, chỉ còn 4 người ở lại. Khác hẳn số công nhân cũ, ngày nào đến ca cũng ra xí nghiệp chờ lệnh… Chiều lên lại chỗ có bom nổ chậm, vào trụ sở đội, lên chỗ làm việc, lấy một số đồ lặt vặt rồi về. Chú Cường gầy nhỏ ham làm thơ suốt hai ngày nay ở đấy rồi. Chú tham gia phá bom, rất khổ tâm vì mãi nó không nổ cho. Đáng mến lạ.

Cái đêm Mỹ ném bom bắn phá cảng dữ dội nhất ấy, bà vợ cụ Sán làm ca 3. Bà yếu sức nên làm tạp vụ lo bữa ăn giữa ca cho tổ. Ở gần cần cẩu cổng có gian nhà cấp bốn sát mé sông làm nơi nghỉ cho công nhân. Bà dọn mì nấu cho các công nhân nữ ăn trên cái bàn gỗ to, còn mình thì thu dọn xoong nồi. Ăn xong các chị bảo bà hôm nay nhường cái mặt bàn có quạt mát cho ba chị to khỏe là chị Bê, chị Tự và chị Bé lên nằm ngủ một lát. Bà đành xuống gầm bàn ngủ tạm. Không ngờ bom nổ, mái nhà sập, ba chị nằm trên chết ngay. Còn bà, nhờ cái bàn to gỗ dầy che nên thoát chết. Cụ Sán chỉ huy cứu sập đứng ngay trên bàn dưới có vợ mình mà không biết. Về sau, bà cứ khen tôi đã cứu bà, còn ông ấy nói rõ to, tôi nghe thấy tiếng, mà tôi gọi thế nào ông ấy cũng chẳng thèm nghe. May có chú đi kiểm tra mới phát hiện ra. Bà bị giập hai tay. Nhưng sống.

Hôm bom ném đội I, văn phòng nơi mình ngủ giường gãy đôi, sách vở tung tóe. Nhà ăn tập thể bị tan hoang, mình phải mò về Thanh Trì kiếm cơm ăn. Lũ trẻ ở đây hôm nay thật lạ. Hễ thấy mặt mình là chúng kêu chú rồi ù té chạy đi, đứa nào cũng thế lo về nhà báo tin. Hóa ra hôm ấy có một chủ hàng tên là Thành bị thương nặng, xe cấp cứu chở đi. Tin về Thanh Trì ai cũng thương mình bảo rõ tội nghiệp chú ấy, hiền lành, tử tế thế mà. Thành ra nhà chị Tửu đãi tôi một bữa ngon, mừng thoát đại nạn.

Tối chủ nhật ấy mình về nhà. 23 giờ thấy có báo động, rồi bắn, bom nổ. Tất cả chỉ kéo dài không quá 15 phút. Vậy mà hôm sau mồng 5/3/1968 đi làm sớm đã thấy một phần Lò Lợn, cả nhà máy cơ khí Lương yên, tất cả các kho thuộc nhà máy xay và một dãy nhà dân ở khu lao động Lương yên… chỉ còn là những đống gạch vụn ngói vỡ, những khung mái trơ xương, những mảnh mái tôn quăn queo méo mó rúm ró. Rất may là nghe nói chỉ có một hai người bị nạn ở khu máy xay. Nhưng khu nhà ở thì có nhà anh Tý công nhân cảng, chết cả hai vợ chồng. Khu nhà máy xay chính bốn tầng vẫn đứng sừng sững giữa đống đổ nát, có tự vệ súng ống sẵn sàng canh gác trên tầng thượng. Tối 4/3, Cảng vẫn tiến hành đại hội công nhân viên chức ở ba địa điểm sơ tán. Họp xong, mình về ngủ lại khu anh em thanh niên. Đêm đã khuya, còn thấy anh em quê Thường Tín lục tục trở về. Mấy hôm trước, sợ quá, họ đã bỏ cảng về quê, nay đã về gần đủ.

Văn phòng đội sơ tán về khu Phà Đen ở trong nhà một công nhân bốc dỡ, hầm đào ngay trong nhà. Ca sản xuất ban ngày, công nhân đi làm khá đông đủ. Ca hai, tương đối ít hơn. Cứ khoảng 18, 19 giờ là lục tục xin về. Dù có đuổi việc chúng tôi cũng cứ về nhà. Cái chết đột ngột không sao tránh nổi của mấy công nhân hôm 1/3 đã có hậu quả thật xấu. Tuy vậy, dưới ánh đèn đất tự chế sáng rực công nhân cảng vẫn tiếp tục làm việc. Các đội 2, 3, chưa từng bị tai nạn chiến tranh làm việc đều đặn hơn. Còn đội I, bên cạnh việc thanh toán hậu quả, sản xuất cũng đang phục hồi dần.

Cuối tháng 10/1968, Cảng Hà Nội nhộn nhịp chuẩn bị đón Đoàn Kiểm tra ngành giao thông vận tải của Đảng và Chính phủ. Làm cổng chào, kẻ khẩu hiệu, dọn dẹp nhà xưởng, nơi làm việc, nơi sản xuất, bàn cả việc mổ bò làm phở xào… Mình là bí thư Thanh niên chi đoàn I bận suốt mấy ngày. Cuộc mít tinh toàn cảng tổ chức ngay ở khu vực sản xuất của đội I, trước cần cẩu cổng. Khẩu hiệu đỏ chữ vàng, đèn nhiều màu rực rỡ. Công nhân số đông là người lớn tuổi, mặc áo quần đẹp, sạch sẽ, còn cánh thanh niên thì chỉ một số ăn mặc đẹp, còn số đông vẫn đánh bộ bảo hộ lao động. Không mấy ai rõ mục đích ý nghĩa của cuộc mít tinh này nên không khí có vẻ tản mạn, kém sôi nổi. Về dự nói chuyện tại cảng có thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải, cục trưởng Cục Vận tải Đường sông Bình Tâm. Nghe nói chuyện xong, công nhân bàn bạc nhiều. Họ biết đã bắt đầu cuộc chuyển mình lớn của cảng, cuộc sống của họ cũng sẽ sang trang.

24/10, Đội I liên hoan, mình được chia một miếng thịt bò, vội đem về nhà xào… Làm việc xong, rủ Bảo lái cẩu, anh Hữu Thông cùng về nhà ăn. Bất ngờ cậu Tuyên đến, báo cho biết sắp lên Tây Bắc, thăm em Nhàn được. Tự nhiên thành một cuộc họp mặt ý nghĩa, vui vẻ, trò chuyện thoải mái.

Tối 1/11/1968, dự cuộc họp rất sôi nổi với các tổ trưởng sản xuất. Hàng loạt vấn đề gay gắt của cuộc sống công nhân được đặt ra tìm cách giải quyết, nhằm nâng cao năng suất lao động cũng là nâng cao phẩm chất của người công nhân. Hôm 3/11, trời đẹp, người vui. Các báo đăng lời kêu gọi của Bác Hồ yêu cầu Mỹ ngừng ném bom miền Bắc vô điều kiện. Cả một bầu không khí hòa bình tràn ngập khắp nơi. Phố xá đông hơn, người các tỉnh cũng về Hà Nội nhiều. Các đường phố treo cờ và những băng đỏ chói ngời câu nói nổi tiếng của Bác mà ai cũng nhớ nằm lòng: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Như một lời nhắc nhở chớ quên Miền Nam. Như một mệnh lệnh: Tiến lên giành toàn thắng. Lại thêm một lứa thanh niên mới tuyển từ Đông Anh.

Ngày 5/11, nghe một tin phấn khởi sẽ có khoảng 200 công nhân cảng đi khu 4, mình sẽ xung phong đi ngay, tất nhiên sẽ phải mang theo mấy tập giấy, còn làm báo tường. Sáng 6/11, qua xóm Phà Đen thấy nhiều nhà đang dỡ ra dựng lại. Tối chủ nhật, ở cảng còn hai đám cưới nữa.

Dạo này họp nhiều mà không đi thì thiệt. Đúng là có tin đi khu 4 thật. Có thêm hai đám cưới nữa, là bốn đám tất cả. Chắc là những cặp đôi này không định đi khu 4 rồi, hay biết đâu  nổi máu anh hùng lên đi cả đôi thì sao. Ai mà biết được dân cảng này…

Tối 11/12 cùng các bạn trong chi đoàn ra bãi xem phim Liên Xô Án mạng phố Đăng tơ, một bộ phim tuyệt hay mình đã xem đến ba lần. Về khu tập thể để ngủ thì gặp các bạn làm ca 2 về, cho biết có chủ trương chính thức lấy công nhân xung phong đi công tác khu 4. Thế là nổ ra một cuộc tranh luận khá sôi nổi. Hôm sau, có người về quê… sơ tán. Mình hào hứng vận động anh em cùng đi. Sau một cuộc họp ngắn gọn trưa 12/12, không ngờ số người ghi tên tham gia đã khá đông. Riêng thanh niên đã có hơn 20 người. Cuối cùng chỉ duyệt được đúng 20 người. Riêng mình, vì yêu cầu công tác, bị để lại ngay. Mình ức quá, anh em cũng rất tiếc. Trong những ngày này, mình thấy gắn bó với tập thể một cách lạ lùng, cảm thấy hạnh phúc được anh chị em yêu mến thật lòng, nhất là sau hôm báo tường số I Tiến lên của chi đoàn ra số đầu, được công nhân toàn đội hoan nghênh nhiệt liệt. Công nhân thấy có người lạ như cán bộ văn phòng hoặc người đội khác đến gần tờ báo là tiến lại gần xem có ý xấu không. Hôm bí thư Đảng ủy mới nhờ cậu kỹ sư đến dán bài thơ khen Tiến Lên, cũng bị giám sát như vậy rồi báo ngay cho mình biết ra xem. Công nhân coi tờ báo là tiếng nói của mình. Dịp này lại đúng kỳ làm lương cho nên mình quá bận rộn với đội mới có số người đông gấp bốn lần đội 5 cũ. Trưa không ngủ, làm việc liên tục 12 giờ mỗi ngày, tối lại gặp gỡ, bàn bạc với anh chị em về nhiệm vụ mới, nhất là việc phục vụ khu 4. Buổi hợp mặt anh chị em trong đội trước khi lên đường thật cảm động. Uống nước trà, hút thuốc, trò chuyện tâm tình, rồi hát, ngâm thơ tự sáng tác, chú Cường bốc vác, nhà thơ của Tiến Lên mượn bút mình viết ngay một bài thơ. Tất nhiên cũng như những bài viết cho báo tường, không có nhan đề. Chưa bao giờ anh em thấy thương yêu nhau, vui vẻ phấn khởi như thế… Tiếp đó cả người đi lẫn người ở đều xuống hội trường cảng dự liên hoan ngọt. Đang lúc giám đốc phát biểu thì có điện khẩn của cục đường sông báo hoãn ngày lên đường đến 15/12. Giám đốc Nguyễn Kim Bài nhấn mạnh là cho hoãn ba ngày, nhưng số người từ 30 sẽ tăng lên 50. Không dễ đâu. Thế là lại một cuộc vận động mới, trưa 14/12, người thứ 22 đăng ký. Mình nghĩ sẽ có hy vọng trong kỳ này bèn đi tìm bác Hoành trưởng đoàn đi khu 4 kỳ này. Bác cũng người Huế. Học lớp bảy mình dạy, rất nghiêm túc. Con người đen như được đúc bằng thép. Cao lớn, nét mặt khắc khổ nhưng giọng nói ấm áp, dịu dàng. Bác làm trưởng ban bảo vệ, sống một thân một mình ở cảng, nhưng không ăn bếp tập thể mà tự nấu ăn như nhiều ông già xứ Huế. Tối 15/12, trước khi ca 2 tan ca, bác đưa tôi lên gặp giám đốc Nguyễn Kim Bài, trình bày nguyện vọng. Giám đốc nheo mắt nhìn tôi rồi nói nhỏ Cậu tha thiết đi lắm hả. Thế thì, nếu mai thiếu sẽ cho đi…

Chuyện này không lường trước được nên tôi không báo cho cụ Sán biết.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/3/2019

P.T.

Tháng Hai 27, 2019

Đội 5: Tarax Bunba

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 6:08 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười hai, kỳ 1 tháng 3 năm 2019.

CHUYỆN MỘT NGƯỜI CHÁU NGOẠI

ĐỘI 5

Phạm Tôn

3: Tarax Bun-ba

Cả buổi trưa 16/3/1967 tôi hì hục cùng anh chị em công nhân trong Đội 5 dọn chỗ làm việc tạm về nhà mới. Lãnh đạo xí nghiệp Cảng cho Đội 5 ra ở riêng, cách cái cổng lớn có ba chữ Cảng Hà Nội to tướng đến gần một cây số nằm gần bệnh viện Đồn Thủy. Văn phòng đội là nhà vách toóc si, vữa trát trên khung tre, mái tranh nứa, nằm cách đường bờ sông 20 mét, cách sông khoảng 50 mét. Nhà có một khuôn viên bao quanh khá rộng. Trước mặt nhà là sông Hồng, cứ như minh đường, sau nhà là con đê, xem như hậu chẩm. Lâm Khang trồng thêm một vườn hoa cúc dại vàng rực, cho hợp phong thủy Trung Hoa.

Bên phải cửa vào nhà là chỗ làm việc của chị Vương Thị Tửu công nhân yếu sức điều lên làm tạp vụ. Chị đặt hai cái lò to nấu nước cho cả đội uống, nấu cơm cho những người trong văn phòng ăn cùng với chị. Tất nhiên chị cũng đi chợ và nấu ăn luôn cho những công nhân cùng làm ca ngày nhờ chị lo bữa trưa. Chị cũng là người nấu ăn cho tôi cả hai bữa vì tôi ăn ở luôn tại văn phòng. Kế chỗ chị Tửu nấu nước là bàn làm việc của đội phó Nguyễn Khánh Chước, vách sau bàn có giá để anh treo xà cột và mũ cối. Còn bên trái nhà kề cửa sổ là bàn làm việc của tôi, giường cá nhân kề ngay bàn làm việc, không cần ghế.

Cái giường cá nhân của tôi thật ra ít khi tôi được nằm một mình. Vì các bạn trẻ biết chỗ để chìa khóa nhà trên gờ quang cửa, cứ cần là vào nằm, mắc màn mà ngủ. Một tối dạy học về muộn vì có bạn hỏi này hỏi nọ. Về nhà đã thấy cửa mở, màn buông bèn bảo cậu nào nằm đấy thì dẹp sang một bên cho anh vào ngủ với. Không ngờ trong màn đã có hai chú đang ngủ say sưa. Một chú giọng khê nồng bảo chúng em đang ngủ, trời lại rét thế này anh đi đâu mà ngủ đi, đừng làm mất giấc ngủ của chúng em. Sáng hôm sau, tôi từ tổ xe về thì biết chuyện động trời. Đêm qua Mỹ thả nhiều bom bi vùng bệnh viện Đồn Thủy, một quả bom bi mẹ rơi gần nhà tôi. Bi bắn tung tóe, một chú nằm giường tôi nghe tiếng bom nổ to vùng dậy thấy bụng mình ướt đẫm liền lay cậu bạn ngủ cùng, trách sao mày sợ gì mà vãi đái ra đầy bụng tao thế này. Hóa ra bản thân bị trúng bi, viên bi xuyên ngọt quá không biết đau, thấy máu mình phun ướt bụng bạn lại tưởng là bạn sợ bom quá mà vãi đái. Đẩy bạn ra rồi, kiệt sức anh nằm vật ra. Không ngờ anh bạn lành lặn thấy máu phun nhiều quá sợ hết hồn, chạy thẳng một mạch về hẳn quê hương Thường Tín cách hơn 20 km. Chuyện này, chính những người trong cuộc kể cho tôi nghe. Còn tôi, chỉ thấy những vết bom bi quả ổi nổ trên đường nhựa trước văn phòng đội 5 to bằng cái bát to. Anh bạn bị bom bi được đưa đi cấp cứu ngay bệnh viện quân đội gần đấy. Khi tôi vào thăm, chú đã tỉnh và kể cho tôi câu chuyện mà chú cho là hết sức buồn cười. Ai cũng bảo tôi mạng lớn. Tôi thì nghĩ mình gặp may, không muốn làm mất giấc ngủ của hai em mà tránh được nạn. Phía trong sát vách là giường ngủ của cụ Sán, kề bên là bàn làm việc, có chỗ để điếu cày và chai rượu vật bất li thân của cụ. Cụ và tôi thường trực đêm tại trụ sở. Giáp vách trái nhà là một khu có mái che, phản gỗ để công nhân ăn trưa và ngả lưng giữa ca.

Thế là Đội tuyển 5, toàn những người được lựa chọn thuộc loại lãnh đạo không ưa nay lại đóng đô ở ngoài cảng. Bị cách ly. Hình như bà con cũng ý thức được phận con ghẻ nên thương yêu nhau, nghe lời ban chỉ huy, làm việc rất tốt tùy theo sức của mình. Một hôm trời rét căm căm, tôi ra bờ sông sớm được tận mắt chứng kiến cảnh tổ bà Bảy đội 5 đang chuyển axit từ thuyền lên bờ qua một tấm ván dài làm cầu cho bà con đi. Chị Đen, người thanh mảnh đang vác trên vai một bình a xít bằng sành men da lươn, tay phải giơ cao cầm chặt quai bình gắn gần cổ bình. Đôi chân đang nhịp nhàng bước trên ván dập dềnh, bỗng chị lạng người, nút bình a xít văng ra, đổ cả vào thân chị, rồi cả bình lẫn người vác bình đều rơi xuống sông. Các chị em cùng làm vội kéo chị Đen lên. Áo đen bị a xít làm cháy long lổ. May mà rơi xuống nước nên chị Đen chỉ bị bỏng nhẹ. Mấy anh tổ khác và tôi đưa ngay chị về trạm y tế cách hơn một cây số cấp cứu, thay quần áo khô. Những bà con trong tổ vẫn tiếp tục bốc vác cho xong số bình a xít còn lại trong thuyền lên bờ trong gió lạnh, không hề sợ hãi, lo lắng gì, cốt sao hoàn thành công việc theo đúng kế hoạch được giao. Hôm sau, chị Đen lại đi làm như thường. Công xá hôm ấy cũng hưởng như những người trong tổ.

Tôi sống ở đội 5 cảm thấy rất lý tưởng. Cơm chiều xong là xách hai xô xuống sông Hồng xách nước lên tưới những gốc mướp chị Tửu bảo tôi trồng. Có phù sa mướp lớn lên nhanh chóng, chẳng bao lâu đã leo kín các giàn, bò lên khắp cả mái tranh. Bà con tiện tay hái về làm bữa ăn chiều cũng chẳng ai trách, vì chủ giàn mướp là chị Tửu và tôi cho tự do lấy. Chiều, tôi leo lên mái nhà lấy mướp đủ ăn cả hôm sau. Tôi còn nấu mì ăn sáng bằng những quả nhỏ hơn ngón tay út, không cần cho mì chính, bát mì vẫn ngọt, ngon lành. Vậy mà vẫn chưa hết mướp. Chị Tửu giỏi lo liệu, bữa trưa, ăn xong là chị tính được ngay tiền ăn cho các người cùng ăn góp, còn tôi thì tính hai suất vì tôi còn ăn bữa chiều một mình ở đấy. Chị để nồi cơm cho tôi ăn chiều vào chỗ dưới than đỏ rấm lò, thành ra tôi vẫn ăn cơm nóng buổi chiều. Thế là thành như một gia đình. Cụ Sán thì về nhà ăn.

Cái làm tôi thích nhất ở đội 5 là những hôm trông thùng trà xuất khẩu cho công ty Nông sản Thực phẩm Hà Nội. Các thùng gỗ vuông đựng trà xếp chồng lên nhau thành một khối to, phủ bạt kín. Trên đó, cụ Sán cho bày bàn trà, khay tròn nhôm có ấm và một tá chén sành đáy bằng. Chúng tôi ngồi chung quanh uống trà và đọc sách. Tôi đọc tạp văn Lỗ Tấn dưới ánh đèn bão to. Anh Mão bộ đội phục viên pha và rót trà đều một vòng các chén. Bao giờ trực trà cũng khoảng một chục người. Tôi đọc và chăm chú ngắm các người nghe, ngừng đọc ngay khi có người muốn nói ý kiến về đoạn vừa nghe. Tôi ngạc nhiên là người nghe hầu hết là chưa qua tiểu học mà hiểu ra ngay thâm ý trong câu văn Lỗ Tấn. Cái vốn sống mà họ từng trải đã đưa đến cho họ trình độ thẩm văn thật cao cấp. Bài được mọi người tán thưởng nhất là bài Bàn về đánh chó rơi xuống nước, ai cũng bảo  cái lũ chó, có đánh nó rơi xuống nước, nó cũng lại leo lên, rũ nước xông vào cắn người ta ngay, chớ thấy nó ướt lướt thướt, trông đáng thương mà thiếu cảnh giác. Con chó bao giờ cũng ác hơn chủ chó, vì nó muốn tâng công với chủ cho nên cắn cả thằng ăn mày đi qua ngoài rào sắt.

Tối mùa hè, trăng thanh gió mát, chúng tôi cởi trần nằm ngủ trên khối thùng trà cao. Mùa đông thì cũng có năm anh đắp chăn đơn, trong đó có tôi, nằm canh. Có lần bọn trộm đục phần dưới thùng lấy được một ít trà. Nhưng không sao, thủng lỗ, không khí ẩm vào, thùng vẫn không giảm trọng lượng. Cán bộ công ty bảo thế.

Ông Bình cán bộ công ty làm ăn với chúng tôi đã lâu cũng có cách bồi dưỡng chúng tôi rất hay. Ông viết giấy xác nhận là chúng tôi trông Tap Van Lo Tantrà rất bảo đảm, xong lại còn giặt cả tấm bạt to sạch sẽ (mặc dù chúng tôi chỉ chải thôi) nên bồi dưỡng số tiền là… Rồi lại kèm giấy giới thiệu sang lò lợn, cho mua bốn cỗ lòng. Thế là chúng tôi có tiền  mua rượu trà lại có cháo lòng và lòng lợn ngon lành làm một bữa chén ra trò. Ông Bình còn thương tôi hay sợ lạnh lưng, đem cho một tấm da báo gấm phế phẩm bị loại để tôi khâu thành mặt trong cốt áo bông, trở thành bảo bối tôi mang theo suốt mùa lạnh, nhất là trong đợt đi Quảng Bình sau này. Những tối ấy, anh Mão là đại úy quân đội nhân dân bao giờ cũng đứng lên tay nâng chén rượu, dõng dạc tuyên bố với cả đội là Tôi lấy danh dự người chiến sĩ cách mạng hứa với bà con là tôi còn ở đội này thì tôi còn phải làm cho cậu này hư hỏng đi mới được. Ai lại đàn ông đàn ang, mà không uống rượu, không hút thuốc, không mê gái, lúc nào cũng chỉ đọc sách và uống trà là không được. Tôi xin lấy danh dự quân nhân ra mà hứa như thế trước bà con. Mọi ngời vỗ tay ran. Tôi sung sướng như một người em được cưng chiều. Mà ở Đội 5 này, tôi được cưng chiều thật. Chị Tửu lo cho tôi từng bữa ăn. Nghe nói mẹ tôi sắp ở nơi sơ tán về thăm, chị còn lo mua cho tôi cả củi lẫn tem phiếu thực phẩm, gạo. Bà Thảo tổ trưởng thỉnh thoảng bảo tôi làm việc xong thì trưa vào ngay nhà bà ở xóm Phà Đen bà có việc cần nhờ. Tôi vào thì bà cho ăn một mẹt bún chả. Bà Bảy, một tổ trưởng khác thì bảo tôi đưa tem, tiền, bà đong gạo cho, còn đem bột mì độn của tôi cho người ta cán thành sợi, phơi khô trên mái tôn nhà rồi mới giao cho chị Tửu nấu cho tôi ăn ngày ba bữa, sáng ăn mì, trưa chiều ăn cơm độn mì.

Tối nào tôi cũng đọc sách, đọc đến đúng 12 giờ đêm mới ghi nhật ký rồi đi ngủ. Đó là lệ của tôi. Nhưng khi có cụ Sán cùng trò chuyện thì tôi thức hầu chuyện cụ cho đến khi nào cụ bảo đi ngủ mới ghi nhật ký. Nhiều đêm, đến một hai giờ sáng. Tôi cho đấy là giờ học của mình, cũng là đọc sách, nhưng là đọc quyển sách to là chính cuộc đời này.

Thứ bảy, ngày 4/3/1967, anh Đại từ Vĩnh yên, chị Thủy vợ Tarax Bunbaanh từ Hải Phòng, em Thân từ Đông Anh ngoại thành Hà Nội đều về 16 Hàng Da. Thật hiếm có dịp như vậy. Bốn anh chị em đi chơi công viên Thống Nhất, tâm tình chung là cổ động nhau phấn đấu đến hơi thở cuối cùng, không đòi hỏi bất cứ đãi ngộ nào, địa vị hoặc sự thông cảm tin tưởng nào, tất cả hiến dâng cho đất nước, cho nhân dân, cố gắng tôi luyện để trở thành những con người gang thép, một con người kim cương trong suốt mà cứng rắn, lóng lánh muôn màu, những con người có ích cho đời.

Hôm sau, đi mua sách vừa may nhà xuất bản Văn Học vừa cho ra bản dịch Tarax Bunba của văn hào Nga Gôgôn. Đi làm là mang theo để đọc những lúc phải chờ. Giờ nghỉ trưa, vào chỗ anh em lái xe không chỉ là học viên mà còn là bạn của mình. Anh em hỏi có gì hay đọc cho nghe. Thế là bên bếp lửa giữa buổi trưa lạnh ấy, chúng mình bắt đầu thưởng thức Gôgôn. Thật kỳ lạ, những công nhân trẻ Việt Nam dân chủ cộng hòa lại say mê nghe, yêu mến vô hạn nhà văn Nga thế kỷ trước. Việc đọc sách này hình như lôi cuốn cả cụ Thiếp râu, kế toán đội xe, cụ lấp ló quan sát bọn mình đọc sách với cặp mắt sắc xảo của một ông cựu đại úy công an khu vực chợ Đồng Xuân từ ngày Hà Nội mới giải phóng năm 1954.

Trưa hôm sau, anh em lại đòi đọc tiếp. Có những câu cả đám trẻ ồ lên tán thưởng như Nếu ai chưa lập công trên bãi chiến trường mà đã nặng đường tình ái tức là không xứng đáng là kẻ trượng phu.

Hết giờ làm việc chiều, ghé vào anh bạn kỹ sư Hiệu, không ngờ Hiệu ốm, đang rất buồn. Tao ở nhiều nơi. Nhưng chưa bao giờ bị ốm mà lẻ loi như ở đây. Hai đứa nói chuyện chân tình cho đến khi mình phải đi họp Đoàn.

Hôm nay, đã đỡ lạnh, nhưng không biết vì sao mình vẫn thấy mệt mỏi.

Trưa hôm sau, lại đọc tiếp Tarax Bunba, người nghe cũng đông hơn có cả thợ xưởng sửa chữa. Càng về sau, anh em nghe càng say sưa chăm chú. Thế là họ yêu cầu mình đọc nốt phần cuối. Không ai ngủ trưa, mà người nào cũng có vẻ hỉ hả lắm. Câu chuyện người anh hùng Tarax Bunba tự tay giết đứa con vì gái đẹp mà phản bội đất nước, chống lại cha, anh. Ông còn phải chứng kiến cái chết anh dũng của con trai cả. Rồi đến khi bị trói bằng xích sắt trên giàn lửa thiêu vẫn lớn tiếng chỉ đạo đoàn quân Kôdắc vượt sông an toàn trước quân Ba Lan đông đảo, hung ác xâm lăng nước Nga. Xem ra tính khí người Kôdắc có vẻ rất hợp cánh lái xe trẻ ở đây. Hiệu, Công, Sâm vui ra mặt.

Kỹ sư Hiệu lại mệt nặng hơn hôm trước. Buổi trưa, mang cho bạn cái bánh mì thì Hiệu nói còn hộp sữa sáng nay mày cho thì mày phải mang về thôi. Tao sắp khỏi rồi. Cả ngày nằm trong màn, không ăn gì. Mãi đến chiều mình đi làm về đục hộp sữa và tự tay pha cậu ta mới chịu uống. Nhớ lại những ngày đau ốm trước đây, mình  không muốn ai phải chịu cảnh cô đơn những lúc ngặt nghèo.

Hôm sau, tan giờ làm việc, đi về khu văn phòng, định thăm Hiệu, thì tình cờ gặp chủ nhiệm Nguyễn Trọng Tin đang dắt xe đạp đi ra. Thấy mình chào và đi về phía nơi anh em tổ xe ở tạm, anh nói một câu mà thoạt nghe không thể ngờ được lại là một câu nói thật, không phải đùa. Cậu không đăng ký ở đây sao hay vào ngủ thế. Thưa anh, buổi trưa em thường vào đây ngủ để chiều đi làm cho đỡ mất thời giờ, lại mệt. Nhà em hiện cũng chẳng còn ai.

Anh Tin vẫn đứng dắt xe, cúi đầu, nói nhưng không nhìn mình: Cậu hay ngủ linh tinh lắm phải không. Từ dạo thôi ở tập thể, em toàn về nhà cả. Chỉ khi nào họp khuya, anh em rủ, mới nể mà ngủ lại thôi. Còn hôm nay là em đem cái bánh vào cho thằng Hiệu, nó ốm mấy hôm nay rồi. Anh Tin đưa mắt nhìn qua mình rồi nói tiếp: Cậu có đem cho anh em người ta mượn một số sách không tốt phải không?

Mình hơi ngạc nhiên, nhưng nghĩ ngay đến việc đọc Tarax Bunba. Thưa anh, em có hay cho mượn sách. Nhưng toàn là sách về Mác, Lênin, bác Hồ, bác Mao và sách văn học Liên Xô, Trung Quốc do ta xuất bản cả, toàn sách tốt. Không hiểu sao lại có chuyện lạ thế. Những người em hay cho mượn sách là Tân, Thái, Lợi, Phúc, Vi và một vài anh em khác. Anh Tin nghe nói thế thì nói: Có người nói cho tôi biết… Tôi thấy là nếu có ai muốn mượn sách thì đã có tủ sách xí nghiệp. Còn nếu cậu muốn cho mượn thì cho tủ sách họ mượn. Mình nghe nói thế thì cắt ngang ngay: Thật lòng, em không muốn cho mượn sách. Chẳng qua là nể anh chị em ham học thôi. Em sợ mất sách lắm, nhất là sách em mượn thư viện. Không hiểu sao lại có cái dư luận độc ác như thế. Anh cho em biết như thế là rất may cho em. Em thật không ngờ… Có vẻ vội đi, anh Tin nói: Tôi nghe nói, nhưng biết cậu là đoàn viên Thanh niên Lao động, nên tôi bảo để tôi hỏi thẳng cậu xem sao. Phải cẩn thận, kẻo mà mang vạ vào thân đấy… Em thật không ngờ lại có việc lạ lùng như thế. Đấy, cậu phải chú ý. Nói thế rồi anh về, không tỏ vẻ tin cậy chút nào. Rồi đi vội, như tiếc là đã nói những lời chưa nên nói, chẳng ra đâu vào đâu cả.

Mình quay lại thì gặp anh em lái xe trẻ. Kể cho nghe câu chuyện vừa rồi, anh em đều kêu là kỳ quặc, hoang đường, láo hết sức. Sau đó là một cuộc hội ý chớp nhoáng. Anh em rất căm kẻ nào định vu khống, chia rẽ. Họ cho thủ phạm đích thị là lão Thiếp râu, kế toán của đội. Lão từng bị tù ba năm vì hiếp con gái vị thành niên, ra tù về cảng làm quản lý bếp ăn tập thể, sau được lãnh đạo tin cậy cho làm ở đội xe. Tối qua, anh em đã thấy lão gặp bí thư chi bộ Ngọ và chủ nhiệm Tin. Khi một người ở tổ xe vào thì lão cười khen cuốn sách đọc hôm qua hay nhỉ rồi hỏi tên sách. Anh lái xe chỉ nhớ tên Bunba, nên nói không nhớ rõ. Ông Ngọ lại hỏi tên cuốn sách. Rõ ra là họ vừa nói chuyện với nhau về vụ đọc sách hôm qua. Một bạn khác còn cho biết thêm là chính lão già Thiếp nói là mình thuộc nhóm Nhân văn Giai phẩm trước kia nên mới phải xuống làm ở dưới đội, v.v. Anh em còn kể ra vô số trường hợp khác lão già này ton hót cấp trên để làm hại anh em. Tất cả đều rất căm tức lão già độc ác… Chúng em định cho lão một vố đau. Còn mình thì muốn xem màn chót của tấn hài kịch này, nên nhờ Hoàng Sâm, chú em nhỏ nhất đội xe đòi cuốn Tarax Bunba lại, giả vờ cho lão xem, để xem lão làm gì…

Sau đó, mình vào thăm bạn Hiệu. Bạn đã khá khỏe. Mình đưa bánh, rồi khi chỉ còn hai đứa, mình nói vắn tắt. Tao muốn nói với mày một câu thế này: Chúng mình đã biết nhau và còn nhiều dịp để biết rõ nhau. Nhưng nay, vì một lý do đặc biệt, nói trước để mày hiểu là tao sẽ ít gặp mày, sẽ tỏ ra kém nhiệt tình với mày trong một thời gian… Sự thật tất nhiên không phải như thế… Đôi mắt quầng thâm của Hiệu ánh lên những tia đầm ấm, giọng miền Nam mộc mạc. Tình cảm đâu phải những cái bên ngoài phải không mày… Mày hiểu cho… Có những đứa, cả già lẫn trẻ… định lấy thịt tao để dâng cho ai đó. Nó quyết giết tao và tao thì không muốn ai bị liên lụy… Tất nhiên, con chó bông vốn thường dữ tợn hơn chủ nó. Khi mình từ biệt ra về và tỏ ý tiếc về vụ này, Hiệu từ trong buồng nói vọng ra Đây thật là một nơi điển hình

Sự việc này nhắc nhở mình phải cảnh giác hơn nữa, cũng củng cố thêm lòng tin vào quần chúng, tin tưởng ở sức mạnh của chính nghĩa. Những kẻ xấu xa, dơ bẩn căm thù mình, quyết làm hại mình, muốn giết mình càng làm mình yên tâm, phấn khởi tin tưởng là mình đã sống đúng đắn, sống như một người chân chính…

Trưa hôm nay, tiếp tục dạy tốp ca nữ hát. Xong, về nhà ăn cơm với em Thân, rất ngon, tuy chỉ toàn rau. Thịt không có đã đành mà ngay một chút mỡ cũng không có. Thời gian nấu và ăn xong, kể cả rửa nồi bát, chỉ mất vừa đúng một tiếng đồng hồ.

Tối, đi họp toàn xí nghiệp tổng kết công tác tự vệ. Bí thư Ngọ thay mặt chi bộ Đảng phát biểu ý kiến chỉ đạo lại nhắc đến vụ đọc sách độc hại hôm qua. Đại ý lão khuyên anh em tự vệ nên cảnh giác, chú ý rèn luyện tư tưởng rồi dẫn chứng là có một số anh em thanh niên mất cảnh giác để cho phần tử xấu đem những sách báo có hại đọc cho nghe, chẳng những không phê phán gì lại còn khen là hay… Minh thấy kỹ sư Hiệu nhìn mình, lặng lẽ lắc đầu.

Cũng hôm nay, được biết là tài vụ sở giao thông vận tải Hà Nội đang kết luận mấy vụ tham ô của lão Hạch. Bà Thảo, một công nhân kỳ cựu của Cảng sẽ phải ra đối chứng với lão ta nói ông ấy kỳ này là phải cho về nông thôn học làm nông dân thôi. Cụ Sán thì nheo mắt tủm tỉm cười. Đấy, chúng tớ đã làm là làm cả một lũ, không phải là trả thù cá nhân. Đã làm là ra làm. Chuyến này rồi đảo lộn hết. Cậu cứ xem một tháng, hai tháng nữa là sẽ rõ cả… Lũ chủ hết thời, bầy chó của chúng sẽ mồ côi. Mình càng cần cẩn thận, kẻo chó cùng rút dậu. Dù sao lũ chó ở đây cũng khá đông…

Cô Phùng Thị Thất ngày càng có vẻ gì đó là lạ với mình. Ngay trước mặt cô có người nói mình là người yêu của cô cô cũng không cải chính, chỉ cười, cái cười rất xinh trên khuôn mặt bầu bĩnh, phúc hậu. Nghĩ mà thương cô gái hồn nhiên, chất phác thông minh ấy lạ. Cô ta dù sao cũng sẽ khổ nếu liên quan đến mình.

Thứ hai 13/3 làm việc suốt đêm. Tối xe xẹp lốp, đành ngủ lại xí nghiệp, nằm trên hai cái bàn làm việc, muỗi rất nhiều, lại lạnh nữa, nhưng vẫn ngủ ngon. Tuổi thanh xuân kỳ lạ thật. Thứ ba 14/3, đọc xong Vinhem Ten, quá hay, còn phải đọc lại nhiều lần. Mệt đi ngủ sớm, còn lạnh nhưng mình chỉ đắp một chăn đơn, không muốn được ấm áp quá… Hôm nay, 15/3, sau khi đi dạy hát về đã 22 giờ, nhân một chuyện không đâu, mình được một bạn cho biết lý do vì sao một số người xa lánh mình. Vì họ sợ liên lụy. Không lạ gì chuyện này. Nhưng nó chứng tỏ có những kẻ gieo rắc nhiều điều nghi vấn về mình. Nó cũng chứng tỏ quần chúng tin cậy mình, luôn bảo vệ mình. Mình cảm ơn bạn và nhờ bạn nhắn với những kẻ đó là mình còn sống, và xem ra còn muốn sống lâu, còn nhiều dịp để biết mình là người như thế nào, đừng có vội…

Ngày 15/3, đã 23 giờ rồi, lại mệt mỏi, nhưng không thể không ghi là hôm nay, mình đã gặp anh Mai Văn Sính, trưởng phòng tổ chức xí nghiệp, nói chuyện cho anh rõ về vụ Tarax Bunba. Anh nói có biết việc này, còn cho biết là có người nói vì đọc sách xấu mà tư tưởng công nhân tổ xe ngày càng nát bét. Điều kỳ lạ nhất anh nói là mình khai nhà ở 16 Hàng Da, nhưng thật ra thì không phải như vậy… Thật quả là không thể tưởng tượng ra được một việc kỳ quái nào hơn thế.

Câu chuyện Tarax Bunba mình cũng nói với Lợi. Lợi nhắc: Cứ yên chí. Việc gì ích nước lợi dân thì cứ làm. Đoàn sẽ ủng hộ. Tôi chưa nghe nói gì về việc này.

Viết nhật ký đến đây là vừa đúng 24 giờ. Chuẩn bị đón một ngày mới hữu ích cho đời. Bỗng nhớ lời Rô-manh-Rô lăng (Romain Rolland) viết về N.Axtơrốpxki: Hãy tin chắc là nếu đời bạn đã trải qua những ngày u ám, thì cuộc đời ấy sẽ là luồng ánh sáng cho hàng nghìn con người .

  1. Chị Vương Thị Tửu

Từ ngày được chị Vương Thị Tửu chăm sóc, cho ăn ngày ba bữa mì và cơm nóng, sức khỏe mình khá hẳn. Không như trước kia ăn bếp tập thể, làm việc muộn là bữa nào cũng cơm nguội canh lạnh, cố nuốt để sống mà xem cuộc đời xoay chuyển ra sao thôi.

Tôi ở 16 Hàng Da, tiếng là ở một mình, nhưng tự nhiên nhà tôi lại thành một cái trạm. Đó là nơi anh Đại tôi từ Vĩnh Yên về, chị Thủy từ Hải Phòng lên, em Thân từ Đông Anh và còn các bạn em Nhàn từ Mộc Châu ghé qua, có khi ở lại nhiều ngày chờ xe lên Nông trường Mộc Châu nơi em tôi công tác từ đợt Thanh niên Hà Nội xung phong lên khai thác miền núi. Một lần bạn Lê Thành Thôn đến nhà nói ở tạm chờ xe lên nông trường. Bạn là người Cần Thơ, thân với chồng em tôi là Nguyễn Thăng Long quê Bạc Liêu. Tôi đã từng lên nông trường, quen thân với nhóm bạn em rể toàn người Nam Bộ. Sau một hôm đưa bạn ra ăn cơm ở cửa hàng ăn uống chợ Hàng Da có thu tem phiếu và trình giấy công tác, tôi cố chiêu đãi bạn một bữa. Thế là phải nhờ chị Tửu. Chị lo cho tôi mua gạo giá ngoài, rồi ra chợ gần cảng mua các giếc tươi, bảo đem về kho cho bạn ăn dần, còn mua cà chua, hành để nấu bữa canh cá giấm mà ăn với nhau. Tôi đem thức ăn về, mua một lít dầu hỏa để nấu ăn bằng bếp dầu Trung Quốc. Hẹn bạn trưa nay về cùng ăn. Nhưng khi tôi về ăn bữa trưa thì trên bàn có cái giấy. Thôn viết có xe, phải đi ngay, nhưng đã kịp kho cá, chưa thổi cơm. Hôm sau là thứ bảy, chị Tửu bảo tôi về nhà chị, chị tráng bánh cuốn Thanh Trì cho mà ăn. Chị còn làm thêm bánh, pha sẵn cả nước chấm để hôm sau có anh em về thì cùng ăn. Hôm đó Mỹ ném bom dữ dội, mấy lần phải vào cái lô cốt Tây trên điếm 19 trú ẩn. Chiều thứ bảy, tôi vui vẻ mang bánh cuốn về, chỉ mong đến ngã tư Hàng Bông – Hàng Da thấy ánh đèn sáng trên tầng hai nhà 16. Nhưng tối om. Không có ai về. Sáng chủ nhật, tôi đem cả bánh cuốn, cả nồi cá bạn Thôn kho theo kiểu Cần thơ có cả hành, cả cà chua, ngon nhưng không để ăn dần được. Tôi mời các bác các anh em cùng làm hôm ấy ăn bánh cuốn chan canh cá giếc do chị Tửu nấu. Tôi nói với chị ăn món lạ nóng hổi do chị nấu ai cũng khen, chưa bao giờ ăn món nào mà lại ngon đến thế. Chị liếc mắt nhìn khách đang xì xụp ăn, nói: Chuyện không mất tiền ai chẳng thích. Không ít lần công lao của chị em tôi đổ sông đổ bể như thế. Khi về đông thì lại chẳng có gì ăn, khi có ăn thì lại chẳng có ai ăn. Mà không phải chị em tôi mới bị như vậy. Cụ Sán cũng bị. Đêm Nô en, nhà cụ nấu miến gà. Cụ thương tôi lạnh lùng bên bờ sông vắng, đem cho tôi một bát miến nóng. Thấy văn phòng tối đèn, cụ lại đem về. Rồi lại hâm, đem ra lần thứ hai. Tôi vẫn chưa đến. Tối ấy tôi rủ Ngô Tiến Thái về nhà nói chuyện đến khuya không ra bến. Một lần, sau một tuần vất vả, mới về thì thấy trên bàn có một mâm đậy lồng bàn, trong đó có hai cái đùi gà chiên đã mốc bông trắng nằm giữa rau xà lách héo đen. Trên mặt bàn xanh lá cây có dòng chữ phấn mẹ tôi viết đến giờ rồi, mẹ phải ra tàu cùng các bác đi Yên Dũng. Ngày đề dưới là một ngày thứ tư, giữa tuần. Nét phấn trắng vẫn rõ ràng. Thời chiến nó như thế. Gặp lúc nào thì cứ vui lúc ấy thôi.

Ngày 17/3, trưa lại dạy hát, chiều vào thăm bác Sán bị bỏng. Cụ nằm nhà mấy hôm nay mà không lúc nào không lo lắng về công việc ở xí nghiệp kể cả những việc nhỏ nhặt nhất… Trên đường về nhà, mua được một gói kẹo có vẻ rất ngon, chắc bé Ngọc sẽ thích lắm…

Trời bắt đầu ấm áp, có vẻ mùa hè rồi. Hôm sau, gặp Tân, biết là anh em tổ lái xe rất phẫn nộ về vụ Tarax Bunba, lão già quỷ quyệt lập tức bị cô lập, nay phải đi mua chuộc từng anh em một. Cái mặt đen xạm, mũi khoằm và cặp mắt cú vọ sáng quắc soi mói của lão ló ra là anh em lảng xa. Cây ghi ta Bùi Trọng cũng cất công đi mấy cây số trong giờ hành chính đến tận trụ sở Đội 5 để làm lành. Trò chuyện chẳng ra đâu vào đâu cả. Mình cứ vừa làm việc vừa tiếp. Hết giờ làm việc Trọng về cùng Lâm Khang còn cố thanh minh mãi là tôi không tệ đến như thế đâu, rất khổ tâm thấy quan hệ giữa chúng ta căng thẳng, mong sao lại thân mật như xưa… Mình không nói gì mà xem ra cậu ta đã sợ mất mật.

Tối đi ăn cưới cô Hải kế toán đội 2, hát bài Nhớ của Hoàng Vân phổ thơ Nguyễn Đình Thi, ai cũng cảm động. Về đến nhà, đã muộn, nhưng là tối thứ bảy, thả lòng một chút, không theo kế hoạch, đọc ngay quyển Đimitơrốp mới mua đến khuya. Nhớ mãi những lời trước tòa án của bọn phát xít: Tôi thừa nhận rằng lời lẽ của tôi thẳng thắn và bốp chát, nhưng cuộc đấu tranh của tôi và cuộc đời tôi cũng đã như thế… Tôi bảo vệ ý nghĩa và nội dung cuộc đời của tôi.

Sáng chủ nhật, trời nhiều mây, mát mẻ đi mua sách, tìm được quyển Mác Ăngghen bàn về văn học nghệ thuật ao ước bấy lâu. Sau đó xuống nhà chị Tửu ở xóm Xép Thanh Trì. Các cháu rất mến mình. Cháu Trung 12 tuổi đã rõ ra là anh cả, một cậu bé ngoan, lanh lợi, chăm làm. Phải cái cháu hơi gầy. Chị Tửu cho ăn bánh chị mới tráng còn để phần cho cả một liễn cơm. Cô Thất ở ngay cạnh nhà chị, ra ao vo gạo thấy mình mời sang chơi. Lần đầu mình không đùa mà nói chuyện nghiêm chỉnh nhưng vui mà cũng rất thẳng thắn. Có phê bình bốp chát cô ta cũng vui vẻ nhận, trả lời thẳng tuột ý cô đang nghĩ, không do dự. Em chẳng thích cái gì hết. Cái gì cũng thế. Chỉ mong được đi khỏi cái đội 3 thôi. Tiếc thật, xí nghiệp mình còn có biết bao con người đầy nhiệt tình, thông minh đang ở trong tình trạng chán nản, uể oải như thế.

Khi về, đến nhà Nguyễn Văn Tân theo lời hẹn. Hóa ra nhà có giỗ, gia đình bắt Tân mời mình đến ăn. Thành ra vừa ăn no bánh cuốn mình cũng phải ăn. Cả hai cụ đều nói Có coi anh như con cháu trong nhà mới dám mời. Bà cụ mang ra cả một mâm đầy, thêm một rổ rau sống, thứ cụ biết mình rất thích ăn.

Nguyễn Văn Tân có lần nói với tôi là trước kia, ngoài việc đi làm, thời giờ còn lại trong ngày, không biết làm gì cho hết rồi còn đi ngủ để sáng mai còn dậy mà đi làm. Bây giờ gặp anh, thì lúc nào cũng bận, cũng thấy thiếu thời giờ, nhiều khi định lên nhà anh chơi mà không thu xếp được. Anh còn quyển Goócki nào nữa thì cho tôi mượn. Tân đã đọc Thời thơ ấu, Kiếm sống Những trường đại học của tôi..

Tôi đang đọc Mác Ăngghen thì Thành Quốc Bảo và Đỗ Đình Hưng đến. Hưng không bao giờ quên những ngày sống cùng mình trong túp nhà nhỏ cùng với lái xe Nhượng. Theo hai chú thì bây giờ anh em ai cũng biết quí thời giờ cả, không lêu lổng như trước.

Chiều 21/3, ra bờ sông, thấy cầu phao bắc ngang sông Hồng đã làm xong, bắt đầu cho người qua lại. Có lẽ đã cấm cầu Long Biên. Cầu phao bằng gỗ, đặt trên các phao sắt và những bó tre. Có thể ngắt ra từng khúc cho tàu bè qua lại. Cuối cầu là hai chiếc phà nối tiếp nhau, có hai ca nô trực ở hai đầu, chắc là để phục vụ cho việc cắt cầu… Mình lên cầu đi qua sông, gió lồng lộng, sóng dạt dào. Anh chị em thanh niên xung phong rất trẻ đang vác ván gỗ tiếp tục củng cố cầu thêm vững chắc. Cái cầu phao đơn sơ ấy thể hiện quyết tâm của Thủ đô ta quyết đánh Mỹ, quyết thắng Mỹ. Các cô cũng hay ghé văn phòng Đội 5 chơi. Sáng Nô en đã nghe tiếng các cô gọi tên mình, bảo hôm nay là một ngày hòa bình anh định đi chơi đâu không. Chỉ hỏi vu vơ thế thôi. Có trưa tôi đang ngủ, các cô lấy cọng cỏ, cù vào gan bàn chân, khen anh này ghê thật không cười cũng không chịu dậy tiếp khách. Tôi đành dậy nói chuyện. Hôm sau, mây sũng nước, rồi mưa nhỏ. Mệt, nằm đến 12:30 thì dậy, thổi cơm ăn với tí nước mắm để có sức ra xí nghiệp tập văn nghệ lần cuối, buổi tối còn đi biểu diễn tuyển tiết mục. Bài Những cô gái cảng sông đảm đang do mình soạn lời theo điệu dân ca quan họ được chọn đi biểu diễn ở hội diễn ngành. Mệt, lại vội, chú Bảo mời mình về nhà ăn cơm gần nơi diễn. Chú nói muốn kể cho mình nghe tỉ mỉ cuộc sống éo le của chú. Chú là con một nghệ sĩ xiếc, chết đột ngột trong khi biểu diễn đu bay tại Sài Gòn năm 1953.

Ngày 24/3, chưa khỏi ốm nhưng đã đi làm nên rất mệt, ngược lại, rất được việc. Trời mưa lạnh. Tan tầm, cùng Nguyễn Mạnh An một chú bé bốc vác đi về nhà An chơi. An là con cả, mới 15 tuổi, trong một gia đình sáu miệng ăn, Bố em là thuyền trưởng, ít khi ở nhà, có khi mấy tháng mới về một lần. Mẹ là tạp vụ ở một nhà máy sơ tán. Nhà em ở khu lao động Thanh Long, mái tranh nứa, vách tre đan trát vữa, quét vôi nham nhở, nhà nhỏ chỉ kê vừa một giường to và một giường con, nền đất. Em chăm làm và biết điều, đúng là con cả của một gia đình con đàn. Có điều lại ngây thơ và có một vẻ dịu dàng như con gái. Chú thật đáng mến, không biết mình có thể giúp em việc gì…

Tối, lễ kỷ niệm ngày thành lập Đoàn tại xí nghiệp. Đoàn Di đến nói chuyện với tư cách cán bộ tuyên huấn Thành đoàn. Bí thư Ngọ cũng lên huấn thị thanh niên, không thấy nhắc gì đến vụ đọc sách xấu. Cùng về, Di nói kỳ vừa rồi tao vừa phải đóng một hài kịch. Thằng Tiến đến họp, gặp riêng tao ra vẻ bí mật và hết sức quan trọng, cho biết là nó rất ái ngại về việc phân công bất hợp lý của mày. Nó còn nhận xét là dạo này mày có vẻ bi quan do biết là có bị nghi ngờ này nọ. Nó rất thương. Còn nói là mày không khá như hồi nó còn phụ trách thanh niên được nó góp ý thường xuyên hơn. Tiến yêu cầu tao giúp đỡ mày. Tao đành nói là lâu lắm rồi tôi không gặp cậu ấy, đồng chí ở gần, nên trực tiếp giúp đỡ thì hơn. Di chân thật, thẳng thắn tuy cố làm ra vẻ độc đáo, cộc lốc…cá tính ấy khác mình nhiều lắm. Nhưng rõ ràng đây là người bạn tốt nhất của mình. Cái chính là bạn trong sạch và cứng rắn. Bạn chỉ còn thiếu có những màu sắc lóng lánh muôn màu là thành kim cương rồi.

Hôm sau, tối thứ bảy là ngày hội truyền thống của ngành giao thông vận tải. Ba xí nghiệp tập trung ở xí nghiệp mình để biểu diễn văn nghệ. Mình không chuẩn bị gì cả cũng lên hái bài Vui mở đường của Đỗ Nhuận. Tưởng là thất bại vì lấy giọng hơi thấp, tiếng không vang, tư thế đứng lại cẩu thả, thêm vào đó là tấm thân cao gầy 1 mét 76. Hóa ra không đến nỗi. Lúc hội ý các đoàn sau buổi diễn, một cô ở xí nghiệp ca nô nói anh hát hay lắm, rất truyền cảm. Giọng cô chân thành, cởi mở, nói xong lại có vẻ thẹn, không nói tiếp… Điều đó chứng tỏ cô ta nói thật lòng.

Khuya mới xong mọi việc, ngủ lại xí nghiệp để hôm sau còn tham gia Ca hát trên sông.

Ngày 7/4 nhật ký ghi: Ở xí nghiệp Cảng Hà Nội có thể nói là cách mạng thắng lợi. Chiều hôm qua bí thư Ngọ đã được tiễn ra khỏi xí nghiệp trong một bữa liên hoan ngọt nhưng lại đầy rẫy những lời châm chọc chua cay, cạnh khóe, mát mẻ, xói móc đắng lòng. Tiếp theo thư ký công đoàn Hạch sẽ đi về nông thôn sau khi có kết luận dứt khoát về các vụ tham ô. Còn anh Nguyễn Trọng Tin, chủ nhiệm, một con người trí thức có trình độ, thông minh đời tư trong sạch nhưng lại quan liêu, chủ quan nên đã dung túng cho hai người kia tự do hoành hành cũng sẽ ra đi. Sau này anh Tin lên cục đường sông làm trưởng phòng thi đua tuyên truyền, có lần về cảng duyệt tiết mục văn nghệ tham gia hội diễn của cục, anh gặp mình khen tiết mục ảo thuật mình và hai kỹ sư Nguyễn Thế Cang và Kiều Văn Lập diễn, bảo chắc sẽ được giải, nên tập trung.

P.T.

(Còn nữa)

Tháng Mười Một 30, 2018

Phạm Quỳnh có quan hệ thế nào với Hoàng Đạo Thúy

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:39 sáng

Blog PhamTon nắm thứ mười, kỳ 1 tháng 12 năm 2018.

PHẠM QUỲNH QUAN HỆ THẾ NÀO VỚI HOÀNG ĐẠO THÚY?

Dã Thảo

Bạn nào đọc đều đặn blog chúng tôi đến nay, chắc sẽ đặt câu hỏi như trên. Vì thấy trong các bài viết quan trọng về Phạm Quỳnh, nhất là về đời tư, gia cảnh từ thuở ấu thơ đến thời thanh niên, rồi sau này làm báo, làm quan, đều có nhắc đến, hoặc dẫn ra những ý kiến của nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy. Vậy thật ra quan hệ giữa hai người là thế nào, mà có lần trong một bài, Phạm Tôn đã viết “Hoàng Đạo Thúy là bạn thân, lại là người trong họ”…?

Trong một bài trước, chúng tôi đã nói rõ Phạm Quỳnh quan hệ thế nào với Dưỡng Am Phạm Hội rồi. Và nay, xin nói ngay là Phạm Quỳnh quan hệ với Hoàng Đạo Thúy chính là qua quan hệ này.

Dưỡng Am Phạm Hội (1791-1854) từng có hai bà vợ, một họ Trần, là vợ cả, vợ kế họ Lưu. Năm 1841, lại cưới bà thiếp tên là Phạm Thị Thục, sinh được bốn con gái, một người tên là Thu Minh. Bà này là mẹ đẻ của bà Cả Mọc, tức Hoàng Thị Uyên, một nhân vật hoạt động xã hội nổi tiếng ở Đông Dương thời Pháp thuộc, sáng lập Hội Tế sinh, giúp đỡ nhân dân lao động nghèo và người già cô đơn. Bà Thu Minh là mẹ già của Hoàng Đạo Thúy, vợ cả ông thân sinh ra Hoàng Đạo Thúy là Hoàng Đạo Thành. Hoàng Đạo Thúy là con bà hai. Chính vì có họ như thế, cho nên những ngày Tết, hoặc giỗ cụ Phạm Hội, Hoàng Đạo Thúy đều đến nhà Phạm Quỳnh ở số 1 phố Hàng Trống, và biết rõ mọi người, mọi việc trong nhà Phạm Quỳnh.

Phạm Quỳnh sinh năm 1893, hơn Hoàng Đạo Thúy bảy tuổi (sinh năm 1900), cùng lứa tuổi, lại đều là con nhà nho mà theo Tây học, cho nên có nhiều chỗ hợp tính nết nhau. Có điều, Hoàng Đạo Thúy tham gia hoạt động xã hội nhiều, tiếp xúc với đông đảo thanh niên, nhất là từ khi lập Hội Hướng đạo, còn Phạm Quỳnh thì trái lại, chỉ vùi đầu vào sách vở, rồi làm báo, chỉ tiếp xúc với giới thượng lưu, trí thức, có học, ít vốn sống thực tế.

Chuyện nhỏ như chuyện nhà, chuyện lớn như chuyện nước, hai ông đều thường bàn bạc với nhau, nhưng tôn trọng ý kiến của nhau, không ai có ý áp đặt ai. Khi Phạm Quỳnh đầy ảo tưởng, định dấn thân vào quan trường, tưởng có thể làm được những việc trước nay mình chỉ mơ ước và luận bàn trên giấy trắng mực đen, trên diễn đàn, thì chính Hoàng Đạo Thúy đã đứng ra ngăn cản, khuyên không nên dấn thân vào một nơi đã mục nát rồi, không vực dậy được đâu. Nhưng Phạm Quỳnh ngây thơ trả lời là cứ để tôi vào làm thử một thời gian xem sao, không làm được gì thì lại ra…Nhưng đúng như Hoàng Đạo Thúy đã báo trước, chẳng những không làm được gì mà còn không sao rút ra được, cứ lún sâu mãi đến làm hại cả thanh danh, mất cả lòng yêu mến của đông đảo nhân dân. Và rút cuộc là chịu một cái chết bi thảm, vô lý, vô nghĩa.

Năm 1991, Hoàng Đạo Thúy đã 91 tuổi, biết mình không còn sống với đời được bao năm nữa, ông đã mời nhạc sĩ Phạm Tuyên đến nhà, nói chuyện cũ, còn viết ra giấy một số tư liệu chỉ mình biết, vẽ cả sơ đồ nhà số 1 phố Hàng Trống, nơi Phạm Quỳnh chào đời và sống suốt thời thơ ấu, thiếu niên, thanh niên, đến 1918 mới dọn về ở 17 Hàng Trống. Nay nhạc sĩ Phạm Tuyên còn giữ được cuốn băng ghi âm cuộc gặp ngày 19/4/1991 tại Hà Nội ấy.

Năm 1992, Viện Văn Học dự định tổ chức hội thảo về Phạm Quỳnh, có mời Hoàng Đạo Thúy cùng Vũ Khiêu, Vương Hồng Sển, v.v… trong đó đặt Hoàng Đạo Thúy viết về Những kỷ niệm về họ Phạm và chủ bút Phạm Quỳnh. Yêu cầu nêu rõ: “Xin cụ 10/12 lấy bài, khoảng 5-7 trang”. Hoàng Đạo Thúy đã viết xong ngày 5/12/1992, vừa đúng bảy trang giấy Viện Văn Học đưa cho.

Nhưng, cái hội thảo gần đến ngày khai cuộc ấy thì có lệnh điện thoại gọi đến bảo “hoãn đến sau Tết”, cho đến nay (1992-2009) vẫn chưa được tiến hành.

Hoàng Đạo Thúy mất tại nhà ở Hà Nội ngày 14/2/1994 (tức mồng 5 tháng Giêng năm Giáp Tuất), sau khi để lại cho con cháu bài thơ Ngủ Quên, toàn văn như sau:

Gió thoảng, trăng trong, buổi mát trời

“Ngủ quên không dậy” việc thường thôi!

Các con chớ giận không từ biệt

Cháu nhớ ông bà ngày tháng trôi

Cái chính chỉ là một lời dặn:

“Giữ lòng trung hậu ở trên đời”

Nhớ thương ghi tạc tình cao cả

Tổ quốc bền lâu với đất trời!

Cuối bài thơ, có ghi rõ “Xuân 1994”. Đáng kinh ngạc và khâm phục hơn là dưới đó còn viết hai dòng ghi rõ tên và năm sinh, năm …mất của mình: “Hoàng Đạo Thúy/1900-1994”.

P.T.

Tháng Mười Một 29, 2018

Về tên song thân sinh ra vợ Phạm Quỳnh và ông nội của Phạm Quỳnh – Dã Thảo

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 11:23 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười, kỳ 1 tháng 12 năm 2018.

VỀ TÊN SONG THÂN SINH RA VỢ PHẠM QUỲNH VÀ ÔNG NỘI CỦA PHẠM QUỲNH

Dã Thảo

Bà Lê Thị Vân là con gái cả của ông ký lục Lê Văn Chấn, hiệu Đào Hùng và bà vợ họ Hoàng. Do ông Chấn có tên là một quẻ trong Kinh Dịch, lại có tên hiệu là Hùng, cho nên có nhiều tư liệu viết lầm tên ông là Lê Văn Hùng, căn cứ theo luận văn trình Đại học Sorbonne bà Phạm Thị Ngoạn viết bằng tiếng Pháp từ những năm 70 thế kỷ trước nhan đề Introduction au Nam Phong. Bà là con Phạm Quỳnh, nhưng ở nước ngoài, lại viết trong thời gian đang chiến tranh, không có điều kiện xác minh. Sai sót là dễ thông cảm. Còn bà vợ ông Chấn cũng thường được các tư liệu ghi là Hoàng Thị Ký. Ngày xưa, người đàn bà đã có chồng thường được gọi theo tên chồng, hoặc chức vụ, nghề nghiệp của chồng, chứ ít ai biết tên thời con gái của họ. Ví như bà phán A, bà đốc B, bà giáo C…đều là như vậy. Trường hợp bà vợ ông ký lục Lê Văn Chấn cũng thế. Bà họ Hoàng, là vợ ông ký lục, thì thường được gọi là bà ký, hoặc bà ký họ Hoàng. Ký là chức vụ của chồng, không phải tên bà vợ. Một lý do cho ta tin chắc rằng ông chồng tên là Chấn là khi sinh con út là trai, ông đã đặt tên con là Tốn, cũng là tên một quẻ trong Kinh Dịch lại kế ngay sau của tên ông (Càn, khảm, cấn, Chấn, Tốn, li, khôn, đoài.) Tên con trai thường đặt có liên hệ với tên cha là lệ thường ngày trước.

Cái tên cậu út Lê Văn Tốn này còn là chìa khóa để xác minh tên của một người nữa. Đó là tên ông nội Phạm Quỳnh. Có tài liệu viết là Phạm Tốn, tức Thịnh, lại có tài liệu viết là Phạm Chu hay Phạm Chuyên. Chúng tôi thấy gọi tên ông là Phạm Tốn là chính xác. Chứng cứ là cậu út Lê Văn Tốn, sau khi chị cả Lê Thị Vân lấy chồng là Phạm Quỳnh, cháu nội cụ Phạm Tốn thì phải đổi tên thành Lê Văn Xuân, chỉ vì trùng tên với người bề trên là ông nội ông anh rể. Cái tên Lê Văn Xuân này coi như là tên chính thức, mất hẳn tên Lê Văn Tốn. Về sau, đi làm ông được hàm cửu phẩm thì mọi người đều gọi ông là ông Cửu Xuân. Và ngay trong thư Phạm Quỳnh hồi mới làm thượng thư được một năm, viết gửi Chánh mật thám Đông Dương là Louis Marty đề nghị can thiệp giảm án hoặc tha cho em ông chủ hãng thuốc Lào Giang Ký, bị giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội “vì hoạt động cộng sản”, cũng giới thiệu: người cầm thư này đến ngài là Lê Văn Xuân, em vợ tôi. Điều này chứng tỏ cái tên Lê Văn Xuân được dùng làm tên chính thức của ông Lê Văn Tốn, vì ai dám giỡn với chánh mật thám Đông Dương thời ấy.

Cụ Phạm Tốn thì lúc sinh thời cũng như khi đã qua đời đều được gọi là ông Cả, vợ được gọi là bà Cả. Vì ông chưa từng đỗ đạt gì khi còn sống, mặc dù cũng học rộng và làm nghề dạy học. Khi ông thi lần cuối thì bị cảm, mất ở trong lều thi, người ta xem ống quyển thấy bài vở đã làm xong nên cứ trình quan giám khảo chấm. Ông được đỗ tú tài. Nhưng khi ấy, ông đã qua đời ở tuổi còn rất trẻ. Con trai ông, thân sinh Phạm Quỳnh, cũng mất khi còn trẻ.

Chúng tôi là người rất thân cận với gia đình Phạm Quỳnh, tự thấy có nhiệm vụ nói cho rõ những sự việc mà người ngoài, dù có đi sâu nghiên cứu sách vở, tư liệu cũng khó lòng biết được. Xin thành thật trình bày cả ra đây mong góp phần để các bạn quan tâm đến học giả Phạm Quỳnh có thêm tư liệu chính xác tham khảo.

Thành phố Hồ Chí Minh 25/7/2010.

D.T.

“Tam đại đồng đường” nhà số 1 phố Hàng Trống – Tìm hiểu Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 9:46 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười, kỳ 1 tháng 2 năm 2018

 

“Tam đại đồng đường” ở nhà số 1 phố Hàng Trống

Dã Thảo

Đó là đại gia đình Phạm Quỳnh hồi đầu thế kỷ XX, gồm có sáu người là ông bà nội, cha mẹ và hai anh em trai Phạm Quỳnh.

Luận văn tiến sĩ Sorbonne Tìm hiểu tạp chí Nam Phong của bà Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh (qua bản dịch của Phạm Trọng Nhân) viết rõ ở Chương II Chủ nhiệm kiêm chủ bút Phạm Quỳnh: “Thân phụ là Phạm Hữu Điển xuất thân tú tài Nho học. Thân mẫu là Thị Đoan, họ Vũ”.

Bản viết tay của Hoàng Đạo Thúy tháng 7 năm 1991 đưa cho nhạc sĩ Phạm Tuyên ghi rõ: “Vì hai con ông Ngạch (con trai duy nhất của cụ Dưỡng Am Phạm Hội-DT chú) đều mất sớm cả. Nên khi ông Ngạch mất, ông Cả thừa tự. Ông Cả, tức là ông nội ông Quỳnh. Ông Cả cũng ngồi dạy học. Nhưng rồi ông cũng mất sớm. Bà Cả ở với cụ Tú bà (vợ ông Ngạch).

“Ở nhà tôi, thỉnh thoảng hay nói đến chuyện một thí sinh đi thi hương. Tất cả các lều đều nhổ cả rồi, mà còn một lều vẫn ở yên. Đến, thì thí sinh này mất rồi. Trong ống quyển, có tập bài thi để sẵn. Tức là thí sinh sắp đi nộp thì chết. Bài cứ đưa lên. Khi chấm thì được xếp đỗ tú tài. Lúc bấy giờ nói là chuyện ông thân sinh ra ông Quỳnh. Tôi cứ ghi, để xét xem có phải là như thế không”.

Hoang Dao Thuy_thu

Cụ Hoàng Đạo Thúy đúng là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, rất thận trọng trong phát biểu của mình. Mà quả đúng như cụ còn nghi ngờ: Người ấy không thể là ông thân sinh mà phải là ông nội Phạm Quỳnh. Vì lẽ, suốt thời gian sống trên đời và ngay cả sau khi đã mất, ông nội Phạm Quỳnh chưa bao giờ được gọi là “Tú” (tức Tú Tài). Ngay bà nội Phạm Quỳnh thì Hoàng Đạo Thúy cũng vẫn quen gọi là “bà Cả”, như gọi ông là “ông Cả” mà không phải là “ông Tú”, “bà Tú”.

Hoàng Đạo Thúy còn viết “Có thể nói: Một nhà hoàn toàn văn học (…) Nhưng mất sức khỏe ghê gớm vì quá nghiệt trong việc để tang”. Ông nội và ông thân sinh ra Phạm Quỳnh đều mất lúc còn rất trẻ.

Ông Phạm Hữu Điển sinh con trai Phạm Quỳnh mới được 9 tháng thì vợ là bà Vũ Thị Đoan ra đi mãi mãi. Bà nội phải bế cháu sang hàng xóm bú chực và mớm cơm cho ăn, lại còn sớm hôm tận tình chăm sóc khi cháu bị đậu mùa. Mãn tang vợ ít lâu, ông Điển tục huyền, sinh được một trai nữa, đặt tên là Phạm Bái. Năm Phạm Quỳnh mới lên chín thì cha lại mất, sau đó chú em Bái cũng chết yểu. Bà mẹ kế còn trẻ, đi bước nữa…Phạm Quỳnh thơ dại sống với bà nội và cụ Tú, vợ người cho gia đình thừa tự. Ông đã lớn lên trong tình yêu thương chăm sóc chu đáo của hai bà cụ nghèo khổ, vắt kiệt sức tàn gìn giữ giọt máu hiếm hoi của cả dòng họ (theo Phạm Tôn, Phạm Quỳnh Người nặng lòng với nhà, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Huế, số 3 (56) năm 2006).

18/7/2009

D.T

Trang sau »

Blog tại WordPress.com.