Pham Ton’s Blog

Tháng Hai 5, 2010

Tư liệu Sơn Tùng phần 3

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:51 chiều

Blog PhamTon, tuần thứ 3 tháng 2 năm 2010.

TƯ  LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG

VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI

THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.

Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.

Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.

Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.

—-o0o—-

II. Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh

CỤ ĐÀO NHẬT VINH – 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn – nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.

Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba – Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ; “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…

Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga – Xô Viết.

Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”

– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.

Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ

PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC “BỮA CƠM BẮC, THẾT KHÁCH BẮC”

Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins). Còn trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7-PT chú)…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào

—-o0o—-

Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: – Năm 1919 tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.

Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp – PT chú) ,…Những bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc – PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa-PT chú)số 22/6/1922 và bài Hygiène mental (Vệ sinh tinh thần-PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc – PT chú)…Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô-PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.

Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”…Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.

Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long…cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh – Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp Chí, Notre Journal, Notre Revue…Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.

Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm…(Chúng tôi nhấn mạnh – PT) Tôi và anh bạn quay trở lại…chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó…Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi – Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng tôi nhấn mạnh –PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền – và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.

Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:

Nhìn mặt mà đặt hình dong

Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon

Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…

Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng

Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:

–          Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.

Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:

Đồng bàn, đồng bát, đồng bang

Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.

Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”

Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.

Hà Nội – Chiếu Văn

8-12-2008

12/11 Mậu Tý

(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)

Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liêu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.

Địa chỉ liên hệ blog chúng tôi là:

PHẠM TUYÊN: N2  P305 Ngõ 40 Vạn Bảo, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: (+84) – 4 – 3832.5283
Mobile: (+84) – 913.043.580
Email: phamtuyen1930@yahoo.com.vn
hoặc
TÔN THẤT THÀNH: 82 Lý Chính Thắng, Phường 8, Quận 3, Tp.HCM
Điện thoại: (+84) – 8 – 3848.0803
Email: thanh.phamton@gmail.com

Điệp viên đơn tuyến của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:41 chiều

Blog PhamTon, tuần thứ 3 tháng 2 năm 2010.

“ĐIỆP VIÊN ĐƠN TUYẾN”

­­­­­CỦA

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH

(Một đoạn báo của giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn Văn Trung, tháng 9 năm 1999)

Lời dẫn của Phạm Tôn: Giáo sư Văn khoa Đại học Nguyễn Văn Trung từng nổi tiếng như cồn ở Sài Gòn thập niên 60 và 70 thế kỷ trước với các bài viết, các tập sách và cả các buổi diễn thuyết chống Phạm Quỳnh quyết liệt, sắc sảo đến mức “đào đất đổ đi”, “không đội trời chung”, nhất là trong tập sách Chủ Đích Nam Phong (Tủ sách Tìm về dân tộc của nhà xuất bản Trí Đăng, Sài Gòn phát hành 2000 bản, ngày 20/2/1975), một công trình phê bình chính trị, trong đó ông dành hết tâm trí để chứng minh rằng Phạm Quỳnh là: “tay sai chính trị, tay sai văn hóa của thực dân Pháp”.

Thế nhưng, tháng 9 năm 1999, trên tạp chí Đi Tới, xuất bản ở Montreal, Canada số đặc biệt về chủ đề “Phạm Quỳnh: Văn hào và Chính trị: Công hay Tội”, ông lại bất ngờ công bố một giả thuyết kỳ quặc đến mức nhà báo lão thành Mạc Kinh Trần Thế Xương dưới bút danh Người Luân Đôn ở tận thủ đô xứ sở sương mù đã phải đánh giá đoạn báo đó là “thần sầu quỷ khốc” và viết hẳn một bài báo dài ngót 14 trang giấy A4 nhan đề Đối diện với lương tâm trước vụ án văn học – chính trị về Cố học giả Phạm Quỳnh: GIÓ ĐÃ ĐỔI CHIỀU.

Để bạn đọc có tư liệu tham khảo nhiều chiều khi tìm hiểu về học giả Phạm Quỳnh, chúng tôi xin trích đăng đoạn báo đó và một phần trong Lời kết bài của giáo sư Nguyễn Văn Trung đăng trong số báo trên từ trang 8 đến trang 20 nhan đề Từ suy tôn Phạm Quỳnh đến đề cao thực dân thời hậu hiện đại. Đầu đề đoạn trích này là của chúng tôi.

—-o0o—-

Tóm lại xét về mặt nổi mặt chìm Phạm Quỳnh là người của địch nhưng có thể là người của ta gài trong hàng ngũ của địch (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) hay không? Giả thuyết này có thể được nêu lên dựa vào tâm sự mà Phạm Quỳnh đã bày tỏ trong chuyến công du Pháp hồi 1922. Bất cứ người Việt Nam nào từ khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương và nước Pháp, có cơ hội ra nước ngoài sang Pháp đều có một lối nhìn thời cuộc khác với người chỉ ở trong nước. Qua những trang tâm sự Phạm Quỳnh cho biết:

  1. Đời sống va chạm hằng ngày trong nước ở xa mới thấy những việc tưởng là quan hệ mà sau đó bần tiện nhỏ nhen, tranh ăn tranh nói, tranh uống tranh ngồi, v.v…
  2. Ở Paris đầu óc mở ra đón nhận những trào lưu mới tiến bộ. Phạm Quỳnh đi nghe các buổi nói chuyện của phe tả Cộng sản, đi thăm đại học Sorbonne, trường sư phạm rồi than thở về thân phận học hành dang dở dở dang của mình và cả nước cũng là dở dang.
  3. Nhận rõ chân tướng chế độ thực dân ở Việt Nam, những người Pháp thực dân khác hẳn người Pháp ở Pháp
  4. Hiểu được tại sao người Việt ở Pháp chống thực dân và không thể có thái độ khác

Với tâm tình đó ông tìm gặp các ông Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc.

Trong bài du ký ông chỉ nhắc tới buổi gặp Phan Chu Trinh mà không nói tới những gặp gỡ khác đặc biệt với Nguyễn Ái Quốc. Chắc hẳn ông đã báo cáo với mật thám Pháp về những tiếp xúc này một cách nào đó cho khỏi bị nghi ngờ. Những ai đã có dịp gặp Nguyễn Ái Quốc bất kể là người Việt Nam hay người ngoại quốc đều thú nhận rất khó chống khả năng cảm hóa thuyết phục của Nguyễn Ái Quốc sau này là Hồ Chí Minh, một người thấm nhuần sách lược Lê-nin-nít. Có thể Nguyễn Ái Quốc, nhận thức được sự đóng góp đặc biệt của Phạm Quỳnh cho cách mạng Việt Nam ở cương vị một người cộng tác thân tín với giới lãnh đạo chính trị an ninh tình báo cấp cao nhất trong chính quyền thuộc địa, trao công tác cho Phạm Quỳnh mà bây giờ gọi là “ĐƠN TUYẾN” nghĩa là chỉ tiếp xúc nhận chỉ thị của một người khi cần đến, trong khi chờ đợi cứ năm vùng 10 năm, 20 năm hoàn thành xuất sắc tất cả các việc người Pháp trao để không bị nghi ngờ bất chấp những đố kị kết án là phản quốc Việt gian. THỜI ĐIỂM 1945-46 PHẠM QUỲNH CÓ THỂ XUÁT HIỆN VỚI BỘ MẶT THẬT (thì) BỊ CẤP DƯỚI GIẾT CHẾT. Khả năng bị thủ tiêu ở thời điểm này lại rất dễ xảy ra ngay cả với những người được triệu ra Bắc làm bộ trưởng như Lê Văn Hiến nếu không nhờ có can thiệp kịp thời.

Dĩ nhiên, đây hoàn toàn là một giả thuyết có thể phải đợi bao giờ một cuốn sử về Nguyễn Ái Quốc trung thực được công bố có nói đến tiếp xúc giữa ông và Phạm Quỳnh hồi ở Paris hoặc không bao giờ được kiểm chứng.

(…) Tình hình hiện nay có xu hướng tạm gác đánh giá Phạm Quỳnh về chính trị và lưu tâm tìm hiểu về sự nghiệp văn học của ông. Trong nước đã xuất bản những Truyện ngắn Nam Phong và chuẩn bị những trao đổi về mặt văn học (…) Việc nghiên cứu này không dựa vào những chứng từ như hồi ký, trả lời phỏng vấn… chỉ có giá trị tương đối nào đó, mà vào bút tích ghi trong hồ sơ hành chính lưu trữ ở văn khố Pháp, Nhật hay của bộ nội vụ ở Việt Nam. Hy vọng có thể phát hiện những sự kiện thuận lợi cho Phạm Quỳnh như xác nhận giả thuyết ông Nguyễn Ái Quốc móc nối Phạm Quỳnh và bức thư kết bằng những mẩu thuốc lá của những Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở trong tù gửi cho ông Phạm Quỳnh đề nghị can thiệp với Pháp thay án tử hình đối với nhóm Nguyễn Thái Học được xác minh ông Phạm Quỳnh có can thiệp… (những đoạn in đậm là do chúng tôi nhấn mạnh – PT)

Montreal, đầu tháng 8/1999

Địa chỉ liên hệ blog chúng tôi là:

PHẠM TUYÊN: N2  P305 Ngõ 40 Vạn Bảo, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: (+84) – 4 – 3832.5283
Mobile: (+84) – 913.043.580
Email: phamtuyen1930@yahoo.com.vn
hoặc
TÔN THẤT THÀNH: 82 Lý Chính Thắng, Phường 8, Quận 3, Tp.HCM
Điện thoại: (+84) – 8 – 3848.0803
Email: thanh.phamton@gmail.com

Thông báo

Filed under: Liên hệ — phamquynh @ 4:24 sáng

THÔNG BÁO

Blog PhamTon xin thông báo đến quý bạn đọc là:

* Hôm nay, 5/2/2010, chúng tôi phát số tất niên

* Ngày mai, 6/2/2010, tức 23 tháng chạp Kỷ Sửu, sẽ phát số Tết đầu tiên của Blog PhamTon

Xin kính mời quí bạn đón đọc để có món quà  đầu xuân có ý nghĩa và không phải là kém thú vị.

Xin cảm ơn quý bạn đã đọc Blog PhamTon.

Blog PhamTon

Làng Nhân Vực với những kỷ vật liên quan đến học giả Phạm Quỳnh – Khúc Hà Linh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:03 sáng

Blog PhamTon, tuần thứ 2 tháng 2 năm 2010.

LÀNG NHÂN VỰC VỚI NHỮNG KỶ VẬT

LIÊN QUAN ĐẾN HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH

Khúc Hà Linh

Lời dẫn của Phạm Tôn: Các bạn đã biết đôi nét về bà Lê Thị Vân, vợ nhà văn hóa Phạm Quỳnh qua bài Năm 16 tuổi, Phạm Quỳnh lấy vợ đồng tuổi Nhâm Thìn của Dã Thảo đưa lên blog chúng tôi tuần 4, tháng 11 năm 2009. Nay, chúng tôi xin mời các bạn về quê bà ở làng Nhân Vực để biết rõ hơn về bà, gia đình và quê quán bà, cũng như cái tình của nhà văn hóa Phạm Quỳnh với gia đình bên nhà vợ và quê vợ qua bài của Khúc Hà Linh đăng trên tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 345 tháng 12-2009, các trang 34-35.

—o0o—

Từ đời Trần về trước, làng Nhân Vực, tổng Xuân Cầu thuộc huyện Tế Giang, đến đời vua Lê Quang Thuận mới đổi là Văn Giang. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1831) Xuân Cầu thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Đó là vùng quê văn hiến lâu đời, truyền thống khoa cử. Trong làng có đình, chùa, văn chỉ, giếng cổ.

Làng Nhân Vực có đền thờ bà Đào Thị Ngọc Liễu, mẹ vua Lê Cảnh Hưng, tức là vợ vua Lê Thần Tôn. Đây là quê vợ học giả Phạm Quỳnh, nhà văn hóa đã từng là chủ bút tạp chí Nam Phong.

Theo sách Biên niên sử cổ trung Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1987) thì Nhân Vực, Xuân Cầu xuất hiện từ thế kỷ thứ VII. Sử cũ chép, khi nhà Đường xâm lược nước ta, đã đưa dân Trung Hoa lưu vong trên đất Đại Việt đi khai khẩn đất hoang hóa để lập hương ấp mới. Ban đầu làng có tên là Tân Kiều, nghĩa là khách nước ngoài mới đến cư trú, sau đổi là Hoa Cầu. Xuân Cầu được thế giao thông thuận tiện, đi bộ chỉ non nửa ngày đường đã ra đến Thăng Long Hà Nội. Mà từ trong làng ra đường cái quan đi ngược về phía đông đến trấn Hải Dương cũng chỉ trọn một ngày đường. Vùng này gần chợ Vải của người Hoa nên làng có nghề nhuộm thâm và nghề buôn phát triển. Hàng vải thâm ở Xuân Cầu là sản vật quý, từng được vào trong câu hát:

Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu (tức Hoa Cầu – Xuân Cầu)

Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm

Những ngày hội làng, có hát chèo, chơi chọi gà, đấu vật, chơi đu, rằm tháng 8 có múa sư tử, hát trống quân. Nhưng con trai con gái thích rủ nhau lên tận Nội Duệ, cầu Lim vui hát quan họ với liền anh liền chị hàng mấy ngày trời mới trở về.

Làng Nhân Vực ngày ấy có dòng họ Lê đến sinh sống từ trước đời vua Lê Quang Thuận cách đây 400 năm. Trong làng có gia đình ông Lê Văn Hùng (vợ tên là Hoàng Thị Ký) gốc nông dân, nhưng kinh tế khá giả. Ông Hùng làm ký lục có 4 người con, 3 gái 1 trai. Cô gái lớn Lê Thị Vân, vào tuổi 15 được tiếng đảm đang, sớm khuya tảo tần làm gương cho 3 đứa em để mẹ thầy không phải bận lòng. Vào tuổi 18 (Thật ra là 16 – PT chú), Lê Thị Vân do duyên trời sắp đặt, nhận lời lấy Phạm Quỳnh, chàng thanh niên đồng tuế, tuổi Nhâm Thìn (1892-1893) ở Hà thành, mồ côi cả cha mẹ. Tiếng là con ông ký, nhưng Lê Thị Vân không được đến trường không biết chữ. Nhưng bù lại rất thông minh có trí nhớ tuyệt vời. Những câu ca dao tục ngữ, truyện cổ dân gian, truyện Nôm khuyết danh đều thuộc lòng, sau này về sống với Phạm Quỳnh, bà đã tạo thêm nguồn cảm xúc, niềm mến yêu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong tâm hồn của chồng và cống hiến cho sự nghiệp canh tân văn hóa, trong vai trò chủ bút tờ Nam Phong tạp chí nổi tiếng nước Nam…

Tháng 9 năm Kỷ Sửu chúng tôi về Nhân Vực, bây giờ thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ở đây được nghe những mẩu chuyện và được nhìn thấy những kỷ vật của gia đình Phạm Quỳnh.

Bức hoành phi cung tiến đình làng

Đình làng Nhân Vực khánh thành năm 1932. Phạm Quỳnh là con rể làng Nhân Vực bấy giờ đã thôi chủ bút Nam Phong tạp chí vào Huế làm quan đã được 5 năm (Thật ra là mới năm đầu – PT chú). Vào mùa đông năm Đinh Sửu (1937), với tư cách Ngự tiền văn phòng, Cơ mật đại thần kiêm Thượng thư Bộ Học, Phạm Quỳnh đi kinh lý Bắc Hà. Ông đã tranh thủ về thăm quê vợ, làng Nhân Vực. Lần ấy các bô lão trong làng được gặp ông quan Thượng Thư, cũng là giai tế của làng, trịnh trọng cung tiến đình làng một đôi câu đối và bức hoành phi. Nay câu đối bị hư hỏng, chỉ còn bức hoành sơn son thếp vàng với bốn chữ đại tự: Thông minh chính trực. Bên phải bức hoành khắc dòng chữ Hán: Bảo Đại Đinh Sửu đông (mùa đông năm Đinh Sửu 1937 triều vua Bảo Đại – TG). Bên trái hoành phi phía trên cao có hai dòng chữ: Tả đại Học sĩ lãnh Giáo dục bộ thượng thư, sung Ngự tiền văn phòng Tổng lý cơ mật đại thần Phạm Quỳnh, bái.

Bức hoành phi đã được treo trang trọng gian giữa đình. Đã qua hơn 70 năm trải qua bao nhiêu biến cố, những sự đẽo gọt của thời gian, rồi chiến tranh, rồi giông bão mà tấm hoành phi vẫn còn. Các cụ trong làng bảo rằng: mỗi lần làng quê vào đình đám, mỗi lần thắp hương, ngước trông lên tấm hoành phi, lại nhớ tới người con rể của làng, thấy bâng khuâng…

Các cụ kể, những năm chiến tranh, đình là kho quân sự nên không có ai được xâm phạm, vì thế đồ tế tự mới còn.

Chiếc khán thờ trong chùa làng Nhân Vực

Làng Nhân Vực còn có một ngôi chùa, cảnh quan thoáng đẹp. Chùa thờ Phật, nhưng ở đây có điều đặc biệt là còn có một cái khán sơn son thếp vàng. Đấy là nơi đặt bài vị gia tiên ông ký Lê Văn Hùng, nhạc phụ của Phạm Quỳnh.

Thấy chuyện lạ hỏi, thì được ông Đào Đình Khuynh (72 tuổi), Trưởng ban di tích LSVH đình Nhân Vực, xã Nghĩa Trụ cho biết:

Trong nhà họ Lê Văn có một cái khán thờ từ đời trước. Đến đời ông Lê Văn Tốn tức là em vợ Phạm Quỳnh là con trai trông coi hương hỏa. Sau ngày hòa bình lập lại 1954, gia đình con cháu ông Lê Văn Hùng vào Nam cả, nhà cửa ruộng vườn không có chủ. Khi cải cách ruộng đất năm 1955, chính quyền địa phương đã trưng thu. Ngôi nhà to đẹp dành làm nhà trẻ, sau là lớp học mẫu giáo. Còn ruộng đất chia cho nông dân. Riêng cái khán thờ của gia đình, nhân dân đã trân trọng đưa vào chùa làng thờ phụng. Ông Khuynh kể trong 5 bài vị đặt trong khám, chắc chắn có hai bài vị của song thân ông Lê Văn Hùng.

Trong rủi có may. Tấm lòng người Nhân Vực quả là nhân hòa, trọng nghĩa. Sau bao nhiêu năm chiến tranh ly tán, lũ lụt bão giông, nhờ có tấm lòng người Nhân Vực mà bây giờ kỷ vật nhà họ Lê vẫn được lưu giữ. Cũng theo ông trưởng ban, thì tại nghĩa trang nhân dân xã, mộ hai cụ được an táng tại đó, còn có mộ người con trai là ông Lê Văn Tốn (tức ông Cửu Xuân), em ruột bà Lê Thị Vân, vợ Phạm Quỳnh.

Lại thêm một chuyện nữa đối với gia đình Phạm Quỳnh – Lê Thị Vân, đó là cách nghĩa trang nhân dân không xa là nghĩa trang liệt sĩ của xã, nơi đang có phần mộ của liệt sĩ  Lê Thị Tâm, con gái ông Lê Văn Tốn. Liệt sĩ Tâm là cháu gọi bà Lê Thị Vân bằng cô ruột. Bà Tâm là du kích đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu chống giặc Pháp ngày 27/12/1946.

Làng Nhân Vực không chỉ có truyền thống văn hiến mà còn là mảnh đất Nghĩa Nhân!

K.H.L.

Địa chỉ liên hệ blog chúng tôi là:

PHẠM TUYÊN: N2  P305 Ngõ 40 Vạn Bảo, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: (+84) – 4 – 3832.5283
Mobile: (+84) – 913.043.580
Email: phamtuyen1930@yahoo.com.vn
hoặc
TÔN THẤT THÀNH: 82 Lý Chính Thắng, Phường 8, Quận 3, Tp.HCM
Điện thoại: (+84) – 8 – 3848.0803
Email: thanh.phamton@gmail.com

Blog tại WordPress.com.