Blog PhamTon năm thứ mười ba, kỳ 2 tháng 3 năm 2021.
Một trăm năm trước, Phạm Quỳnh đã viết bài này
TRUYỆN KIỀU
Lời dẫn của Phạm Tôn: Từ một trăm năm nay, ở nước ta, hầu như không ai nói tới Truyện Kiều mà quên nhắc tới Phạm Quỳnh. Nhất là từ sau 1924, năm diễn ra lễ kỷ niệm lớn nhất nước ta từ xưa tới nay ngày mất đại thi hào Nguyễn Du, với hơn hai nghìn người tham dự tại Hà Nội. Tối ấy, nhà báo, nhà văn Phạm Quỳnh xuất thần thốt lên câu nói bất hủ “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn,Tiếng ta còn, nước ta còn”.
Sau đó, đã nổ ra một cuộc tranh luận lớn về Truyện Kiều, với sự tham gia của những tên tuổi lớn trong cả nước. Đến nỗi, sau này cuộc tranh luận về một tác phẩm văn học đã bị đẩy lên thành một hành động chính trị. Và cuộc tranh luận đã thành một “vụ án”: Vụ án Truyện Kiều, thoát hẳn ra ngoài lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Đến nay, sau hơn ba mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, theo tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đang ngày càng có nhiều cách tiếp cận mới dân chủ hơn, công bằng hơn mà cũng thấu tình đạt lý hơn. Và chân lý ngày càng sáng tỏ, trong một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xứng đáng là quê hương của các danh nhân văn hoá thế giới: đại thi hào Nguyễn Du và Hồ Chí Minh.
Thật ra, Phạm Quỳnh quan tâm, yêu mến Truyện Kiều và Nguyễn Du từ lâu rồi. Trong bài văn cuối đời viết còn dở dang vào trưa ngày 23/8/1945 Cô Kiều với tôi, Phạm Quỳnh có kể là ông đã say mê Kiều từ thuở lọt lòng, qua lời ru của mẹ là cô Vũ Thị Đoan, một hậu duệ của dòng thi thư họ Vũ nổi tiếng hay chữ, hiếu học đất Hải Dương. Và bài đầu tiên ông viết về Truyện Kiều, phân tích tìm hiểu Truyện Kiều “theo lối mới” là bài Truyện Kiều, đăng trên Tạp chí Nam Phong số 30, tháng 12 năm 1919, năm ông mới 26 tuổi và Nam Phong ra đời vừa hai năm. Bài dài đến 20 trang báo, gồm bốn phần: 1) Cỗi rễ Truyện Kiều. 2) Lịch sử tác giả. 3) Văn chương Truyện Kiều. 4) Tâm lý cô Kiều.
Để cung cấp cho bạn đọc ngày nay có thêm tư liệu nghiên cứu về Truyện Kiều và Nguyễn Du, cũng như bản thân tác giả Phạm Quỳnh, bắt đầu từ kỳ 1 tháng 1/2011, chúng tôi lần lượt trích đăng bài báo quan trọng này, theo văn bản in trong Phạm Quỳnh – Thượng Chi Văn Tập, Nhà xuất bản Văn học xuất bản tại Hà Nội năm 2006, từ trang 549 đến trang 593. Nay đăng lại bắt đầu từ kỳ 2 tháng 1 năm 2019
Sau đây, xin mời các bạn đọc từng phần.
—o0o—
3. Văn chương truyện Kiều
Truyện Kiều kết cấu thế nào, trên kia đã được kể rồi. Nhưng sắp đặt các tình tiết, giàn bày các cảnh ngộ, châm chước biến hóa, khác nào như người làm nhà mới vẽ xong cái kiểu, kiểu đã xong phải dựng cho thành thân cái nhà mới là công hoàn thành, mà phần đó lại là phần khó nhất. Ở đâu cũng là khó, mà ở nước ta lại là khó hơn nữa, vì tài liệu ta ít ỏi, thường thiếu thốn không đủ dùng. Thế mà Cụ Tiên Điền ta cũng dựng nên cái nhà vàng cho nàng Kiều ở, thì đủ biết Cụ là một tay thợ tài, và tài liệu của ta nếu khéo biết dùng cũng không phải là không sung túc vậy. Mà thật văn chương truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, có lẽ văn Tàu cũng không có gì bằng. Nay muốn phát biểu cho hết những chỗ hay trong truyện Kiều, không thể sao cho khắp được, vì suốt truyện không một câu nào là đặt non đặt ép, câu nào cũng là lời chải chuốt, ý sâu xa cả. Vậy sau đây gọi là lược cử giăm ba câu, một vài đoạn ký giả lấy làm hay nhất, có ý tứ nhất, và thử giải cái sở dĩ.
Phàm văn chương hay là thứ nhất ở lời văn điêu luyện, thứ nhì ở ý tứ thâm trầm. Có ý tứ hay mà lời văn không đạt, thời ý tứ cũng không biểu lộ ra được; có lời văn đẹp mà không có ý tứ gì thời khác nào có vỏ mà không có ruột, có xác mà không có hồn. Xét trong truyện Kiều thật là kiêm được cả hai, lời văn rất luyện mà ý tứ rất sâu, lời văn luận cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong một câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra; ý tứ sâu cho đến nỗi càng đọc càng cảm, càng nghĩ càng thấm, lời lời trầm trọng như mang nặng một gánh tình thiết tha như kêu oan nỗi sầu khổ, cảm động vô cùng.
Văn chương hay ở lời ở ý, mà ý với lời lại còn phải cho xứng hợp với cái cảnh, cái người định mô tả, thời mới gọi là hoàn toàn được; cảnh vui mà giọng buồn không hợp, cảnh buồn mà giọng vui cũng không hợp; chỗ cảm động phải ra lời cảm động, chỗ chua cay phải có giọng chua cay; người điên đảo phải nói câu điên đảo; người thuần hậu phải ra vẻ thuần hậu, và khách giang hồ phải ra thói giang hồ. Văn truyện Kiều thật được trúng như thế không sai. Chỗ nào lời văn cũng là in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời nào ý nào cũng thích với nhân tình thế cố, khiến cho nhiều câu trong truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người bình thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy.
Đó là mấy tính cách chung của văn chương truyện Kiều, suốt trong truyện từ đầu chí cuối đều đủ bấy nhiêu tính cách cả. Văn chương nào đã trúng cách như thế là văn chương có giá trị cả, dẫu ngoài không có cái tinh thần gì khác nữa cũng là đủ lưu truyền vậy. Nhưng truyện Kiều sở dĩ hơn các văn chương khác chính là ở cái tinh thần riêng ở ngoài lề lối ấy. Tinh thần ấy cao thâm mà uyên áo, sán lạn mà rực rỡ, điều hòa mà êm ái, mãnh liệt mà hùng hồn, tuy trạng thái có khác mà đều là một mảnh hồn thơm của kẻ giai nhân người danh sĩ cách đại cảm nhau, hương thừa còn phảng phất trong toàn truyện. Tinh thần ấy không thể gồm một câu mà tóm cho hết được, nhưng đại để là cái tinh thần xót xa đau đớn, cảm nhận bi thương, dẫu trong lúc vui vầy cũng có mùi cay đắng, dẫu trong cuộc truy hoan cũng có vẻ u sầu.
Trên kia đã nói truyện Kiều là một “đoạn trường thanh”. Mà thật truyện Kiều tức là một bài đàn chia ra làm mấy đoạn, mà người gẩy là một kẻ sầu nhân. Thủa nhỏ mới học đàn đã gẩy khúc “bạc mệnh”, rồi sau trong mười mấy năm trời đổi xoang đổi điệu biết bao nhiêu lần, mà lần nào cất tiếng lên cũng có cái giọng “bạc mệnh” ở trong ấy cả; thành ra một tiếng đàn ấy là cái tia mạch ngầm quán xuyến cả cuộc đời cô Kiều, cả toàn thiên truyện Kiều vậy. Các nhà đại trước tác xưa nay phàm kết cấu những trường thiên đại đoạn thường hay dùng một ngụ ý để làm cái giây vô hình liên lạc các bộ phận trong bài văn, các chương tiết trong bộ sách. Cái ngụ ý trong truyện Kiều ấy tức là tiếng đàn của cô Kiều, tiếng não nùng ai oán, suốt truyện không đâu là không như văng vẳng nghe thấy bên tai…
Giữa buổi đêm khuya kia, đương lúc tình ý nồng nàn, ngồi gẩy cho kẻ tri âm nghe, tưởng suốt đời cô Kiều không còn có thời khắc nào vui sướng bằng cái phần đêm hôm ấy, nên cả nghề tài phô bày ra hết, mà tiếng đàn gẩy lên.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa…
“Hay thì thật là hay”, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”, khiến cho “người ngồi đấy cũng phải ngơ ngẩn sầu”!
Lựa chi những khúc tiêu tao,
Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người?”
Rằng: “Quen mất nết đi rồi,
“Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao?”
Lại buổi đêm kia nữa, khi đã kinh qua những sự nguy hiểm tầy trời, mới lĩnh chức Hoa Nô ở nhà ả Hoạn.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa giây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người,
Tiểu thư xem cũng thương tài,…
Rồi đến lúc bắt ra hầu rượu Thúc lang, trông mặt cố nhân lòng càng đau đớn, mà tiểu thư ác nghiệt thay, lại bắt giờ đến nghề chơi mọi ngày.
Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài,
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe”.
Nàng đà choáng váng tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cũng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
“Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?…”
Lại đến lúc Từ Hải bị lừa mà chết, Hồ Tổng đốc mở tiệc trong dinh
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn giây giỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu!
Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu?
“Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”
Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc này,
“Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ,
“Cung đàn lựa những ngày xưa,
“Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!”
Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!…
Cho đến hồi tái hợp, mười lăm năm mới lại ngồi cùng ai như đêm nào:
Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
Nàng rằng: “Vì mấy đường tơ,
“Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
“Ăn năn thì sự đã rồi,
“Nể lòng người cũ vâng lời một phen”.
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu rỏ duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông?
Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xót xa?
Chàng rằng: “Phổ ấy tay nào?
“Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
“Tẻ vui bởi tại lòng người,
“Hay là khổ tận đến ngày cam lai?”
Nàng rằng: “Vì chút nghề chơi,
“Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
“Một phen tri kỷ cùng nhau,
“Cuốn giây từ đấy về sau cũng chừa”
Cầm đến đàn là gẩy nên tiếng bạc mệnh, cũng như bước chân ra là gặp phải cảnh đoạn trường, đó là cái ngụ ý của tác giả, muốn mượn tiếng đàn mà biểu hiệu cái thân thế cô Kiều. Khúc khúc rặt những giọng tiêu tao, kịp cho đến lúc sau cùng kết cục vì nể lòng người cũng mà phải giở đến ngón đàn xưa, thời tuy có gẩy nên những những giọng đầm ấm xuân tình nhưng rõ là gẩy gượng mà thôi, giọng vui ấy lại thảm hơn mấy mươi lần những giọng thảm khi xưa, cũng như cuộc vui cuối mùa ấy cũng là vui gượng cho khỏi phụ lòng ai, chứ thân thế ấy còn vui sao được nữa? Bi thay! Nhà thơ biết đặt cái ngụ ý sâu xa như thế thật là tuyệt xảo vậy.
Kể cái khéo trong văn chương truyện Kiều thời còn nhiều lắm, không sao nói cho hết được, nhưng cái khéo ấy không phải là cái tiểu xảo ở sự xếp câu hợp vận, đưa đẩy đệm lót, mà phần nhiều ở cái ý tứ thâm trầm cảm tình vô hạn.
Như tả hình dung hai chị em Vân, Kiều lời đều trang nhã, mà rõ biệt hai bức tranh người khác nhau, rất là có ý vị.
Một bên thời
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang,
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Một bên thời
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Trang trọng, đầy đặn, nở nang, hoa cười, ngọc thuyết, đoan trang, nước tóc, màu da, kể đẹp cũng là đẹp thật, nhưng rõ đẹp về hình thức nhiều hơn đẹp về tinh thần, đẹp đài các mà không đẹp tài tình, đẹp “vô hồn” như bức tranh tố nữ này.
Sắc xảo, mặn mà, tài sắc, thu thủy, xuân sơn, hoa thắm, liễu xanh, cũng là đẹp mà là đẹp đậm đà, đẹp có tinh thần, có khí sắc, có sinh hoạt, có tài tình.
Chỉ đọc tám câu thơ ấy cũng đủ biết được tính tình hai người con gái, một người đài các, một người tài tình, người đài các thời cái thân thế sau này chắc cũng bình thường như các cô con gái khác không có gì là lạ; mà người tài tình thời càng tài tình lại càng phải đem thân ra nếm trải những mùi chua cay ở đời để tăng thêm cho cái kho kinh lịch của loài người về đường luyện tâm xử thế: đó vẫn là cái số phận xưa nay của những người có tài mà lại có tình vậy.
Vẽ người đến thế là đã khéo lắm, nhưng đó là cái lối vẽ chính thức, còn lối vẽ phá bút, chỉ một vài câu dăm ba chữ mà hình dung được cả nhân cách một người, như đánh dấu đến thiên cổ không bao giờ sai được.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Cò kè bớt một thêm hai…
rõ ra chú Mã Giám sinh, anh lái buôn người làm ra mặt văn nhân đi kén vợ.
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay…
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên…
thật là mụ mẹ giầu đáo để tai ác.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương.
Hỏi ra mới biết là chàng Sở Khanh…
là thằng sỏ lá làm mặt hào hiệp.
Thúc Sinh là anh dại gái mà sợ vợ, người tầm thường nhu nhược, ngồi với gái thì nói khoác:
“Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
“Trăm điều hãy cứ trông vào một ta…
“Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều…”
mà về đến nhà thấy vợ làm tội tình nhân, không dám hở răng can gián, không dám tỏ rõ sự tình, cái hiệp khí lúc trước đi đâu mất cả, đành chịu làm người bó tay…
Hai câu sau này rõ ra cô Hoạn Thư, con quan, đài các mà đanh thép:
Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già…
Văn tả cảnh lắm bức tuyệt bút:
Tà tà bóng ngả về tây…
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh,
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối gành bước sang,
Sè sè nấm đất bên đàng,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh…
Mấy chữ rắp đôi đó thật là khéo lắm và tả được hết cái vẻ buồn rầu trong phong cảnh chiều hôm.
Lại bức cảnh sau này nữa, thật là cái cảnh nặng tình:
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà,.
Một mình lặng ngắm bóng Nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời…
Tả cảnh theo phép phong lưu cũ, có đủ: phong hoa, tuyết, nguyệt, thi, họa, cầm, kỳ, trang nghiêm mà tiêu sái, thời tám câu như sau này thật là tuyệt phẩm:
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu,
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Đôi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Lại cái cảnh kẻ đi người ở, thương nhớ bùi ngùi, thật là ý nhã và lời xinh:
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai sẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường…
đọc tưởng như trông thấy bức tranh mĩ nhân đứng cửa sổ dưới bóng trăng mà con mắt đăm đăm nhìn xa như tưởng vọng ai…
Đại để cảnh nào trong truyện Kiều cũng là cảnh đeo tình, mà tình là u tình, sầu tình cả.
Văn tự sự thời như đoạn Vương Quan thuật lại chuyện Đạm Tiên cho hai chị nghe, đoạn Đô lại thuật lại chuyện Kiều cho Kim Trọng nghe, lời lời gãy gọn, phân minh, rạch ròi, đích xác.
Nhiều khi một câu thơ mà gợi ra cái tình ý vô cùng, bày ra những nông nỗi bát ngát, như câu:
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh…
người ta ai cũng có lúc nghĩ xa man mác mà thấy ghê sợ rùng mình như vậy.
Trong văn chương Pháp thường truyền có câu thơ của Racine:
C’était pandant l’horreur d’une profonde nuit… (Nghĩa là đương lúc ghê thảm đêm khuya) cho là hay lắm, chỉ có mấy chữ mà gợi ra được cái cảm giác sợ hãi lúc đêm khuya. Nhưng thiết tưởng câu trong truyện Kiều:
Canh khuya thân gái dặm trường…
cũng chăng kém gì, có lẽ lại uẩn súc bao hàm hơn. Đêm đã khuya, thân là con gái, mà đường đi thì dài, chỉ có sáu chữ mà diễn ra được cái cảm giác hãi hùng ghê sợ biết bao nhiêu!
Những câu lời vắn tắt mà ý tứ nhiều như vậy, trong truyện Kiều thật nhiều lắm, không kể sao cho xiết được. Như câu:
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e…,
có rõ ra cái thái độ cô con gái thẹn thùng, mới nói chuyện với tình nhân lần thứ nhất không?
Văn chương ta vẫn có tiếng là không biết tả thực, hay chuộng những cảnh hoang đường huyền diệu. Văn chương truyện Kiều thời không thế; chỗ nào nên tả thực rõ ra nét bút tả thực, mà vẫn có cái vẻ trang nghiêm thanh nhã. Như mấy đoạn tả về lầu xanh:
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương án hẳn hoi
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
Hương hoa hôm sớm phụng thờ,
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
Cổi xiêm trút áo sỗ sàng,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi…
…
Mụ rằng: “Ai cũng như ai,
“Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
“Ở trong còn lắm điều hay,
“Nỗi đêm khép mở, mỗi ngày riêng chung.
“Này con thuộc lấy làm lòng,
“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
“Chơi cho liễu chán hoa chê,
“Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời…”
Lại như đoạn Kiều tắm, cũng là tả thực, mà thanh nhã biết bao nhiêu:
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Đầy đầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên!
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường…
Nói tóm lại thời trong truyện Kiều thật là đủ các lối văn chương, mà lối nào cũng tới cực điểm, mỗi lối một vẻ, mà lối nào cũng là “mười phân vẹn mười” vậy.
Lạ thay, tiếng Việt Nam ta nhiều người chê là nghèo nàn non nớt, thế mà truyện Kiều thời rõ là một áng văn chương lão luyện, tưởng có thể sánh với những hạng kiệt tác trong các văn chương khác mà không thẹn vậy. Đủ biết rằng tiếng ta cũng đủ phong phú, nếu khéo luyện tập cũng làm nên văn chương hay chẳng kém gì tiếng nước khác, chứ không phải như nhiều người tưởng lầm là một thứ tiếng bán khai, đành lòng bỏ đi để đem công mà học văn chương nuớc khác. Lại lạ nữa, là trước truyện Kiều không có văn nôm gì hay bằng văn Kiều – trừ có khúc Cung oán và truyện Hoa Tiên, tương truyền là đã có từ trước truyện Kiều, tuy cũng là hạng văn nôm có giá trị, nhưng vẫn còn kém văn Kiều nhiều, – mà sau truyện Kiều cũng không có văn nào hay bằng văn Kiều; đủ biết người nước ta xưa nay vẫn khinh thường văn quốc âm không chịu tập, bỏ phí mất cái lợi khí thiên nhiên của Tạo vật đã phú dữ cho người mình để mở mang cho giống nòi được tiến hóa. Người trước đã xao lãng, người sau nên chăm chút, cho hồn Cụ Tiên Điền ta dưới chín suối không đến nỗi ngậm ngùi than rằng đời sau không có kẻ kế nghiệp vậy.
P.Q.