Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 2 tháng 4 năm 2022
TRÊN QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 30/4/2022
Vang mãi hào khí đại thắng mùa xuân 1975
Hôm nay, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta vui mừng kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước (30/4). Kỷ niệm chiến thắng 30/4 năm nay càng thêm ý nghĩa khi cả nước đang nỗ lực phấn đấu quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng các cấp. Chúng ta đã dần kiểm soát dịch Covid-19, từng bước phục hồi và phát triển kinh tế, đưa cuộc sống trở lại bình thường sau hơn 2 năm quyết liệt phòng chống dịch.

Cách đây 47 năm, khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng sức mạnh “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn; Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những thắng lợi vĩ đại và hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, kết thúc 21 năm chiến tranh lâu dài, gian khổ, đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước; đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên thống nhất, độc lập, tự do, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam; một biểu tượng sáng ngời của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế vô tư, trong sáng, cũng chính là chiến thắng của sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng trong đại thắng mùa Xuân năm 1975, những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: kinh tế phát triển nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững; tiềm lực an ninh, quốc phòng ngày càng lớn mạnh; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Những năm qua, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gây khó khăn nhiều mặt, tình hình thế giới có nhiều biến động, phức tạp, song dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành linh hoạt của Nhà nước, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong nước và nước ngoài, Việt Nam vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Năm 2022 và những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ở trong nước và ngoài nước đang đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Mặc dù Việt Nam cơ bản đã kiểm soát được dịch Covid-19, đang đẩy nhanh quá trình phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội đất nước; nhưng nguy cơ bùng phát dịch bệnh vẫn còn, trực tiếp đe dọa, ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội, đời sống của nhân dân…
47 năm đã trôi qua, nhưng tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vẫn luôn ngời sáng, là nguồn cổ vũ toàn thể nhân dân ta trên chặng đường thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước.
Phát huy những bài học kinh nghiệm, hào khí, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc, của đại thắng mùa Xuân năm 1975 trong thời kỳ mới, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao tinh thần yêu nước, tự lực, tự cường, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19, phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng đất nước, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, xây dựng thành công đất nước Việt Nam hùng cường như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.
- Trang 5 báo Nhân Dân ngày 30/4/2022
Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa
Trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc ngày 28-1, lãnh đạo Đài Loan (Trung Quốc) Mã Anh Cửu có chuyến đi đến đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, ngày 28-1, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ: “Một lần nữa, Việt Nam khẳng định có đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền không tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc lãnh đạo Đài Loan, bất chấp quan ngại của Việt Nam và của cộng đồng quốc tế, vẫn tiến hành chuyến đi đến đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, đi ngược lại những phát biểu gần đây của phía Đài Loan mong muốn đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Chúng tôi kiên quyết phản đối và yêu cầu phía Đài Loan chấm dứt ngay việc vi phạm chủ quyền của Việt Nam, không tái diễn các hành động tương tự, làm leo thang căng thẳng, phức tạp tình hình ở Biển Đông”.
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 29/4/2022
Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lực bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” toàn diện, hiệu quả
Ngày 28/4, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo xây dựng đề án “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” tổ chức Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết quan trọng này.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng ban Chỉ đạo chủ trì Hội nghị.
Cùng dự có các Ủy viên Bộ Chính trị: Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Phó Trưởng Ban chỉ đạo; Đại tướng Phan Văn Giang, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo; Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội Chính Trung ương; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Công an; Đại tướng Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tham dự Hội nghị còn có các Bí thư Trung ương Đảng: Đỗ Văn Chiến, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương cùng các thành viên Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị liên quan.
Phát biểu tham luận tại Hội nghị, đại biểu lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương thông tin về tình hình thế giới, khu vực có liên quan, tác động đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; hướng dẫn việc tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch của cấp ủy, tổ chức đảng gắn với tổ chức Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là đã kế thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện đường lối, tư duy mới, bước đột phá về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Qua đó, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức, trách nhiệm về bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và lực lượng vũ trang thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Phân tích tình hình thế giới và khu vực trong những năm tới với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, Chủ tịch nước cho rằng, đối với đất nước ta sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao; hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít khó khăn thách thức, tác động trực tiếp, sâu sắc đến quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng chăm lo, củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch nước đề nghị việc tổng kết cần bám sát các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI gắn với thực hiện các Nghị quyết, kết luận của Trung ương liên quan lĩnh vực này ban hành thời gian gần đây. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ những chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định.
Việc tổ chức tổng kết phải đánh giá toàn diện tình hình, cả về mục tiêu và sáu nhóm nhiệm vụ, giải pháp, và kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI trong 10 năm (từ năm 2013 đến 2023), chỉ ra được những ưu điểm, kết quả nổi bật, những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong Nghị quyết; rút ra những bài học kinh nghiệm sau 10 năm thực hiện. Đồng thời trên cơ sở kết quả tổng kết và phân tích bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và tình hình đất nước, đề xuất phương hướng, mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ giải pháp trong những năm tiếp theo.
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 28/4/2022
Đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc phức tạp
Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan chức năng cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, với quyết tâm cao, hành động mạnh mẽ, quyết liệt, khẩn trương hơn, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chủ động tấn công, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, suy thoái trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Ngày 27/4, tại Hà Nội, Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ban Chỉ đạo) tổ chức cuộc họp dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo để thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo từ sau Phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo đến nay, xác định yêu cầu nhiệm vụ công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian tới.
Về nhiệm vụ trong thời gian tới, Thường trực Ban Chỉ đạo yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan chức năng cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, với quyết tâm cao, hành động mạnh mẽ, quyết liệt, khẩn trương hơn, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chủ động tấn công, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, suy thoái trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Cụ thể là, các cơ quan tiến hành tố tụng tăng cường phối hợp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; phấn đấu đến hết năm 2022 kết thúc điều tra 19 vụ án, truy tố 21 vụ án, xét xử sơ thẩm 24 vụ án, xét xử phúc thẩm 6 vụ án và kết thúc xác minh, xử lý 39 vụ việc theo Kế hoạch của Ban Chỉ đạo. Nhất là, tập trung điều tra, xử lý nghiêm sai phạm liên quan đến các vụ án, vụ việc rất nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, như:
(1) Vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; Đưa hối lộ; Nhận hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, xảy ra tại Công ty Việt Á;
(2) Vụ án “Tham ô tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng;
(3) Vụ án “Tham ô tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam;
(4) Các vụ án, vụ việc vi phạm pháp luật về đất đai, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Khánh Hòa, Bình Dương, Bình Thuận;
(5) Vụ án “Đưa hối lộ; Nhận hối lộ; Buôn lậu; Sản xuất, buôn bán hàng giả; In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” xảy ra tại Đồng Nai và một số tỉnh, thành phố…
Khẩn trương đưa ra xét xử sơ thẩm 2 vụ án trọng điểm trong Quý II/2022, gồm:
(1) Vụ án “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, các tỉnh, thành phố khác, Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế và một số địa phương liên quan;
(2) Vụ án “Nhận hối lộ và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, xảy ra tại một số đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển và Bộ đội Biên phòng.
Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là cơ chế, chính sách pháp luật về đấu giá, đấu thầu, quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… và những kiến nghị của Ban Chỉ đạo, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, không để bị lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực.
Ban Cán sự Đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tăng cường quản lý, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu để xảy ra các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực trong ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị thuộc trách nhiệm phụ trách, quản lý; khẩn trương rà soát, làm rõ trách nhiệm của các trường hợp đùn đẩy, né tránh, chậm kết luận giám định, định giá tài sản, để kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định.
Ban Nội chính Trung ương – Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan giúp Ban Chỉ đạo tổ chức tổng kết 10 năm hoạt động của Ban Chỉ đạo.
Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân đầu tư xây dựng các chuyên trang, chuyên mục sâu sắc hơn, chất lượng hơn về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó có nội dung về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thống nhất bổ sung một số vụ án, vụ việc vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo:
(1) Vụ án “Đưa hối lộ, Nhận hối lộ” xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số cơ quan liên quan;
(2) Vụ án “Thao túng thị trường chứng khoán” xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC;
(3) Vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh;
(4) Vụ việc sai phạm liên quan đến Dự án bất động sản tại số 33 Nguyễn Du, số 34-36-42 Chu Mạnh Trinh, TP Hồ Chí Minh;
(5) Các vụ án buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới liên quan đến Nguyễn Thị Kim Hạnh và những cán bộ, đảng viên có hành vi tiêu cực liên quan đến vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại An Giang.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, thời gian qua, Thường trực Ban Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc những quyết định của Phiên họp thứ 21, đã làm khối lượng công việc rất lớn và càng ngày càng có kinh nghiệm tốt. Ban Chỉ đạo đã chú ý chỉ đạo những lĩnh vực mới, nhạy cảm, khó, tồn tại lâu và trên thực tế là đã làm được, như đối với các lĩnh vực quản lý đất đai, tài chính, thị trường chứng khoán,… Những vụ lâu nay mà dư luận quan tâm, chờ đợi, bây giờ làm tốt, nhân dân rất hoan nghênh, như vụ xảy ra ở Công ty Việt Á, Cục lãnh sự, Bộ Ngoại giao, các Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh,…
Tổng Bí thư nêu rõ, chấp hành ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo không chỉ chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng mà chỉ đạo cả công tác đấu tranh phòng, chống tiêu cực với trọng tâm là suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Tiêu cực mới là cái lớn; ngăn chặn, xử lý được tiêu cực mới giữ được sự trong sạch của Đảng, giữ được cán bộ; phải ngăn ngừa từ xa, phát hiện tiêu cực càng sớm thì ngăn chặn càng hiệu quả. Xử lý cán bộ vi phạm nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn, có lý, có tình. Từ đó củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, chế độ và hệ thống chính trị.
Theo Tổng Bí thư, từ thực tế công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã cho chúng ta kinh nghiệm hay và hoàn toàn đúng cả về lý luận, thực tiễn và đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Đó là công tác kiểm tra phải đi trước một bước, kiểm tra dấu hiệu vi phạm. Có dấu hiệu vi phạm là tiến hành kiểm tra, bảo đảm đúng nguyên tắc, kỷ luật Đảng trước, sau đó kỷ luật về hành chính, nếu phải xử lý hình sự thì xử lý hình sự, không phải cứ chờ điều tra rồi lại thống nhất với nhau thì thanh tra rồi đến đưa ra xét xử,…
Tại cuộc họp, Thường trực Ban Chỉ đạo đánh giá, từ đầu năm đến nay, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đẩy mạnh và có những chuyển biến mới trên nhiều lĩnh vực. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Quy định số 32-QĐ/TW mở rộng phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo sang cả công tác phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận số 21-KL/TW về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; Bộ Chính trị đã ban hành Thông báo Kết luận số 12-KL/TW, ngày 6/4/2022 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; cho ý kiến hoàn thiện Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để trình Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII).
Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quyết liệt trong chỉ đạo phát hiện, xử lý một số vụ việc nổi cộm, bức xúc dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Ban Chỉ đạo đã khẩn trương xây dựng, ban hành Quy chế làm việc, Quyết định phân công nhiệm vụ thành viên Ban Chỉ đạo, Quy định về kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Ban Chỉ đạo; quyết định thành lập 8 Đoàn kiểm tra công tác phát hiện, tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm tham nhũng, tiêu cực và công tác giám định, định giá tài sản tại một số cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan chức năng.
Về kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, Thường trực Ban Chỉ đạo nêu rõ, các cơ quan chức năng và các thành viên Ban Chỉ đạo có nhiều nỗ lực, cố gắng, kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm.
Từ đầu năm đến nay, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 1.264 vụ/2.038 bị can, truy tố 742 vụ/1.594 bị can, xét xử sơ thẩm 737 vụ/1.567 bị cáo về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (trong đó, khởi tố mới 125 vụ án, 259 bị can về tội tham nhũng).
Riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, đã khởi tố mới 4 vụ án/23 bị can, khởi tố mới 7 bị can trong 3 vụ án, khởi tố bổ sung tội danh 4 bị can trong 2 vụ án; kết thúc điều tra, điều tra bổ sung 5 vụ án/134 bị can; truy tố 3 vụ án/34 bị can; xét xử sơ thẩm 2 vụ án/14 bị cáo, xét xử phúc thẩm 1 vụ án/4 bị cáo.
Nhất là, đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, như:
(1) Vụ án “Tham ô tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng;
(2) Vụ án “Tham ô tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam;
(3) Vụ án “Đưa hối lộ; Nhận hối lộ” xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số cơ quan có liên quan;
(4) Vụ án “Thao túng thị trường chứng khoán” xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC;
(5) Vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh.
Đã khởi tố 8 cán bộ diện Trung ương quản lý (1 thứ trưởng; 1 nguyên thứ trưởng; 1 nguyên Chủ tịch UBND tỉnh; 5 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang).
Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán tiếp tục được đẩy mạnh; các cơ quan chức năng đã thực hiện nghiêm cơ chế phối hợp trong phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực qua công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử theo chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã khẩn trương kiểm tra, phát hiện, xử lý, kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý.
Qua công tác thanh tra, ngành thanh tra đã chuyển 65 vụ việc có dấu hiệu tội phạm đến cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định pháp luật; qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện 13 vụ việc, 18 đối tượng tham nhũng. Kiểm toán Nhà nước đã cung cấp 31 hồ sơ, báo cáo kiểm toán cho các cơ quan chức năng để phục vụ công tác điều tra, kiểm tra, giám sát.
Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ở địa phương có nhiều chuyển biến tích cực, điển hình như: Sơn La, Thanh Hóa, Phú Thọ, Khánh Hòa, An Giang, Đồng Nai, Thái Nguyên,…
Công tác thu hồi tải sản thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, tiêu cực tiếp tục được quan tâm; từ đầu năm đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, ngăn chặn giao dịch tài sản có giá trị hơn 2.050 tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị khác; cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được gần 4.000 tỷ đồng.
Thường trực Ban Chỉ đạo cũng nêu rõ những hạn chế như:
(1) Một số vụ án, vụ việc chậm kết thúc xử lý theo kế hoạch của Ban Chỉ đạo; công tác giám định, định giá tài sản trong một số vụ án, vụ việc còn chậm, có dấu hiệu đùn đẩy, né tránh, trách nhiệm chưa cao, phối hợp chưa tốt;
(2) Tình trạng tham nhũng, tiêu cực trên một số lĩnh vực còn nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi hơn, có sự cấu kết, móc nối giữa cán bộ thoái hóa, biến chất với các doanh nghiệp, tổ chức để trục lợi;
(3) Cơ chế, chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập và gần đây lại bộc lộ thêm trong lĩnh vực định giá, đấu giá tài sản, chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp,…;
(4) Công tác tự kiểm tra, giám sát trong nội bộ vẫn là khâu yếu.
Tin, ảnh: BẮC VĂN
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 26/4/2022
Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030
Thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, vừa ký ban hành Kết luận số 34-KL/TW ngày 18/4/2022 về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030. Kết luận nêu rõ:
Qua hơn 10 năm thực hiện Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị khóa X về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020 (gọi tắt là Chiến lược), nhận thức của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát được nâng lên; hệ thống văn bản của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát cơ bản được ban hành đồng bộ, thống nhất; nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát được thực hiện toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Ủy ban kiểm tra các cấp được kiện toàn về tổ chức, cán bộ, bổ sung nhiệm vụ, thẩm quyền; tích cực, chủ động tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát được nâng lên, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.
Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chiến lược ở một số nơi chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt; có nhiệm vụ, giải pháp chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa toàn diện, đồng bộ, hiệu quả thấp. Một số ban cán sự đảng, đảng đoàn, ban tham mưu của cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở chưa thực sự quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát, chất lượng còn nhiều hạn chế. Chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật từ Trung ương tới địa phương.
Những năm tới đây, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đất nước đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Bốn nguy cơ đối với Đảng, chế độ mà Đảng ta đã chỉ ra có mặt còn gay gắt hơn. Tình trạng tham nhũng, vi phạm pháp luật, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn diễn biến phức tạp. Đáng chú ý là có sự cấu kết, bao che, tiếp tay của một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, rất tinh vi, phức tạp, nghiêm trọng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành…
Nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, tích cực góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời với việc tiếp tục thực hiện Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị khóa X, Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030, cần tập trung thực hiện tốt các nội dung sau:
I- MỤC TIÊU
– Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết, thống nhất và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, kiên quyết xử lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị.
– Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; bổ sung, hoàn thiện phương pháp, nội dung công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới.
– Đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, nhân rộng, kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm khi có vi phạm.
II- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát
– Cấp ủy các cấp ban hành đầy đủ, kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế… về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng những nhân tố mới, cách làm hay, điển hình tốt, phát huy sự năng động, sáng tạo của tổ chức đảng, đảng viên trong công tác kiểm tra, giám sát.
– Cấp ủy các cấp ban hành quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với cơ quan điều tra, thanh tra, kiểm toán, viện kiểm sát, tòa án nhân dân cùng cấp; chỉ đạo phối hợp chặt chẽ, không để chồng chéo trong tổ chức thực hiện.
– Cấp ủy, nhất là người đứng đầu thường xuyên làm việc với ủy ban kiểm tra để nắm tình hình, kết quả thực hiện, kịp thời chỉ đạo, định hướng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
– Thực hiện kiểm tra, giám sát theo phương châm giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; kê khai tài sản, thu nhập,… Tăng cường kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật, kịp thời ngăn chặn vi phạm trong ban hành văn bản pháp luật, lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ. Mở rộng giám sát trên tất cả các địa bàn, lĩnh vực; chú trọng vào những nơi nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, dư luận xã hội quan tâm; nâng cao tính chủ động để kịp thời nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ sớm, từ xa.
– Chủ động kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực, nhất là kiểm tra dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội. Xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời, triệt để, đồng bộ các tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm.
– Cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cấp ủy viên và cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý phải thường xuyên tự kiểm tra, kịp thời phát hiện những hạn chế, khuyết điểm để chủ động khắc phục, chấn chỉnh không để dẫn đến vi phạm. Kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên không đủ năng lực, uy tín; việc miễn nhiệm, từ chức, trách nhiệm người đứng đầu khi cấp có thẩm quyền kết luận đã để xảy ra tham nhũng, tiêu cực ở cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách.
– Ủy ban kiểm tra cấp trên thường xuyên, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát, nhất là trong xử lý các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, dễ xảy ra vi phạm, các vụ việc về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; kịp thời xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay tại cơ sở, chi bộ.
- Chủ động dự báo, kịp thời ban hành các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
– Đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chủ động dự báo sớm, cung cấp cơ sở khoa học để kịp thời tham mưu cho Đảng về các chủ trương, đường lối, giải pháp có tính chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
– Chủ động nghiên cứu, tham mưu, ban hành các văn bản của Đảng bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, đồng thời tăng cường trách nhiệm, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kịp thời thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, khuyết điểm; phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực.
– Tập trung xây dựng, hoàn thiện các quy định về cơ chế phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, việc thực thi quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý; quy định các hành vi vi phạm, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cơ chế về kiểm soát tài sản, thu nhập, quyền lực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán…
– Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học-công nghệ trong hoạt động của ngành kiểm tra. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật từ Trung ương đến cơ sở phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nghiên cứu, dự báo, tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra công minh, liêm chính; tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp đồng bộ, tinh gọn
– Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phân định rõ tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp; quy định cụ thể cơ cấu, số lượng ủy viên ủy ban kiểm tra kiêm nhiệm ở các cấp.
– Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra liêm khiết, công minh, chính trực, có bản lĩnh, dũng khí đấu tranh, gương mẫu, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, tận tuỵ, trách nhiệm. Ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn, khung năng lực cán bộ làm công tác kiểm tra theo hướng chuyên nghiệp. Thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra các cấp để đào tạo, rèn luyện cán bộ. Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp.
– Xây dựng giáo trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật cho cấp ủy viên, cán bộ kiểm tra các cấp. Thường xuyên cập nhật kiến thức, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp ủy viên, ủy viên ủy ban kiểm tra các cấp.
– Nghiên cứu để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định thí điểm cơ chế đại hội đảng bộ bầu ủy ban kiểm tra; ủy ban kiểm tra cấp trên lựa chọn, giới thiệu, chuẩn y… thành viên ủy ban kiểm tra cấp dưới.
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện Kết luận này.
- Giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương xây dựng Kế hoạch thực hiện; phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Trang 3 báo Nhân Dân ngày 19/4/2022
Văn hóa là hồn cốt của dân tộc
Trong bài “Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc… Văn hóa còn thì Dân tộc còn”.
Tư tưởng này đã khái quát bài học kinh nghiệm lịch sử của dân tộc trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước và được tiếp tục kế thừa, phát huy trong thời đại Hồ Chí Minh để thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam Độc lập-Tự do-Hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Văn hóa Việt Nam là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần có tính bền vững, kết tinh những tinh hoa của các dân tộc Việt Nam, sáng tạo và vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Những giá trị đó phản ánh “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”(1).
Những giá trị này luôn luôn được các thế hệ sau kế thừa và phát huy trong thời đại của họ tạo thành truyền thống dân tộc. Khi được hình thành, truyền thống văn hóa có tính bền vững, có sức lan tỏa và định hướng, đánh giá và điều chỉnh hành vi của xã hội. Giá trị văn hóa cũng chính là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc, là dấu hiệu để phân biệt dân tộc này và dân tộc khác.
Giá trị văn hóa thể hiện sinh động và đa dạng trong các di sản văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và trong hoạt động sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. Đồng thời, giá trị văn hóa truyền thống cũng là cơ sở để liên kết các nhóm xã hội, các dân tộc trong cộng đồng quốc gia Việt Nam, là điểm tựa cho sự liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh đoàn kết, thống nhất của dân tộc mà không thế lực nào có thể khuất phục.
Có thể nói nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa “Vệ quốc vĩ đại”. Bảo vệ Tổ quốc, gắn với vận mệnh của Tổ quốc là lý tưởng, là lối sống của văn hóa Việt Nam. Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý bất biến của văn hóa dân tộc là “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trở thành giá trị văn hóa chủ đạo xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thông quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
Ý thức về độc lập dân tộc và chủ quyền của đất nước gắn liền với tình yêu, ý thức bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ tiền nhân đã có ý thức rất rõ về bảo vệ và xây dựng nền văn hóa của một quốc gia độc lập, tự chủ. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã luôn có ý thức về xây dựng nền văn hóa độc lập, tự chủ của dân tộc. Chính sách phát triển văn hóa dân tộc luôn luôn được quan tâm trong các giai đoạn lịch sử của thời kỳ độc lập, tự chủ, ngay cả trong những giai đoạn khó khăn nhất.
Tự hào về văn hóa dân tộc, luôn luôn chăm lo, vun đắp để kế thừa và phát triển văn hóa dân tộc trở thành một yêu cầu khách quan để bảo vệ và xây dựng đất nước. Mối quan hệ giữa văn hóa với dân tộc trở thành mối quan hệ gắn bó hữu cơ, mật thiết không thể tách rời.
Chính sức mạnh văn hóa kết tinh ở chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo đã giúp dân tộc ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức trong chiến tranh chống xâm lược suốt trường kỳ lịch sử để khẳng định sự tồn tại của mình. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam trước hết được thể hiện ở sức mạnh của văn hóa, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sự thống nhất về lý trí và tình cảm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không có thế lực nào, dù mạnh đến đâu cũng không thể khuất phục.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, các giá trị văn hóa Việt Nam đã được khơi dậy và phát huy cao độ, góp phần tạo động lực tinh thần để nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Với đường lối văn hóa đúng đắn của Đảng, văn hóa dân tộc đã tham gia tích cực vào các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước. Tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” đã chiếu sáng và dẫn đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), kế thừa và phát huy tư tưởng đề cao văn hóa, coi trọng văn hóa của dân tộc trong lịch sử và những kinh nghiệm trong lãnh đạo văn hóa thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(2).
Như vậy, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chính là “hồn cốt” của dân tộc, là “sức mạnh nội sinh”, trở thành nền tảng tinh thần, động lực và nguồn lực để chúng ta xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng không chỉ xác định mục tiêu cụ thể trong nhiệm kỳ Khóa XIII mà còn hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới.
Trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, có định hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Tư tưởng chỉ đạo “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc… Văn hóa còn thì Dân tộc còn” đã được thể hiện toàn diện và sâu sắc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, bao quát từ chủ đề Đại hội tới các quan điểm, định hướng, nhiệm vụ phát triển và các đột phá để phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới.
Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh đến vai trò, sứ mệnh của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh có những cơ hội và thách thức mới.
Tổng Bí thư yêu cầu: Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Để tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, nhất là tư tưởng “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc… Văn hóa còn thì Dân tộc còn”, toàn đảng, toàn dân và toàn quân ở các cấp, các ngành cần đẩy mạnh việc cụ thể hóa các giải pháp mà Văn kiện Đại hội XIII và Bài phát biểu của Tổng Bí thư nêu ra, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động để tạo động lực tinh thần mạnh mẽ và toàn diện cho sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
———————————-
- Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII. NXB Chính trị quốc gia, 1998.
- Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2011, tr75-76.
PGS, TS PHẠM DUY ĐỨC
- Trang 2 báo Nhân Dân ngày 29/4/2022
Khánh thành cầu Thủ Thiêm 2
Kỷ niệm 47 năm Ngày Giải phóng niền nam, thống nhất đất nước và 136 năm Ngày Quốc tế Lao động, sáng 28/4, UBND TP Hồ Chí Minh tổ chức khánh thành cầu Thủ Thiêm 2 bắc qua sông Sài Gòn nối quận 1 và Khu đô thị mới Thủ Thiêm, TP Thủ Đức, sau 5 năm thi công.

Đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và TP Hồ Chí Minh dự lễ. Đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, dự và phát biểu ý kiến tại lễ khánh thành.
Dự án cầu Thủ Thiêm 2 hoàn thành không chỉ kết nối giao thông khu vực trung tâm thành phố với Khu đô thị mới Thủ Thiêm mà còn tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội cho TP Hồ Chí Minh nói chung và cho Khu đô thị mới Thủ Thiêm nói riêng theo quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ. Công trình được hoàn thành từ sự nỗ lực vượt qua khó khăn của nhà đầu tư (Công ty cổ phần địa ốc Đại Quang Minh) và sự hỗ trợ hiệu quả từ Trung ương đến thành phố và các bộ, ngành.
Cầu Thủ Thiêm 2 được khởi công vào tháng 4/2017, có điểm đầu tại giao lộ Tôn Đức Thắng-Lê Duẩn, điểm cuối kết nối vào đường Trần Bạch Đằng (tuyến R1) Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Phần cầu chính và cầu dẫn phía quận 2 có 6 làn xe (4 làn xe cơ giới, 2 làn thô sơ); phần cầu dẫn phía quận 1 gồm 4 làn xe đi thẳng vượt qua nút giao Nguyễn Hữu Cảnh-Lê Thánh Tôn đáp xuống trước nút giao Lê Duẩn. Tổng chiều dài của công trình là 1.465m với tổng vốn đầu tư khoảng 3.100 tỷ đồng. Với kiến trúc cầu rồng, hình dáng cong về phía sau của tháp cầu đã tạo nên tính thẩm mỹ độc đáo cũng như tạo điểm nhấn kiến trúc trên sông Sài Gòn.
Theo Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi, việc xây dựng, hoàn thành cầu Thủ Thiêm 2 có ý nghĩa to lớn, là sự động viên đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau tác động của đại dịch Covid-19. Với vai trò là trung tâm của Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, TP Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, tăng cường đầu tư các công trình giao thông trọng điểm có tính chất liên kết vùng như đường Vành đai 3 (địa phận TP Hồ Chí Minh); nút giao thông An Phú; mở rộng quốc lộ 50; cao tốc TP Hồ Chí Minh-Mộc Bài.
Phát biểu ý kiến tại lễ khánh thành, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái ghi nhận sự nỗ lực của chính quyền thành phố cũng như công lao đóng góp của nhân dân để công trình cầu Thủ Thiêm 2 đưa vào sử dụng. Phó Thủ tướng cho biết, Đảng và Nhà nước sẽ chú trọng, tiếp tục quan tâm phát triển cho khu vực phía Đông TP Hồ Chí Minh, đặc biệt là những dự án mang tính kết nối vùng như: Đường Vành đai 3, Vành đai 4, cao tốc TP Hồ Chí Minh-Thủ Dầu Một-Chơn Thành; cao tốc TP Hồ Chí Minh-Mộc Bài; cao tốc TP Hồ Chí Minh-Trà Vinh; cố gắng hoàn thành các dự án này đến năm 2030.
Tin, ảnh: QUÝ HIỀN
- Trang 4 báo Nhân Dân ngày 28/4/2022
Quảng Ninh dẫn đầu bảng xếp hạng PCI 5 năm liên tiếp
Ngày 27/4, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2021 (PCI 2021). Đây là hoạt động thường niên dựa trên khảo sát gần 11.312 doanh nghiệp (hơn 10.127 doanh nghiệp tư nhân và 1.185 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI).

Theo kết quả PCI 2021, Quảng Ninh là địa phương dẫn đầu bảng xếp hạng PCI năm nay và là năm thứ 5 liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng với số điểm đánh giá Y73,02, giảm gần 3 điểm so với năm 2020. Tỉnh này đứng đầu chỉ số gia nhập thị trường (7,98 điểm) và chi phí thời gian trong giải quyết thủ tục hành chính (8,52 điểm). Đây cũng là địa phương duy nhất được xếp ở nhóm “rất tốt” vì đã có chất lượng điều hành kinh tế xuất sắc, cải thiện chỉ số gia nhập thị trường, giảm thiểu chi phí không chính thức, cũng như kịp thời tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng doanh nghiệp…
Trong điều tra PCI 2021, các doanh nghiệp tại Quảng Ninh cũng đánh giá “tốt” và “rất tốt” về ứng phó của chính quyền địa phương trước dịch Covid-19. Đây là một trong số địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp hài lòng về quản trị dịch bệnh cao nhất cả nước. Năm 2021, Quảng Ninh thu hút hơn 1,1 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của Quảng Ninh năm ngoái tăng 10,28%. Bình quân thu nhập đầu người khoảng 7.614 USD, đứng thứ hai cả nước. Lần này cũng đánh dấu năm đầu Hải Phòng vươn lên vị trí thứ hai, với 70,61 điểm (tăng 1,34 điểm so với năm 2020) trong bảng xếp hạng PCI sau nhiều năm trong top 10.
Riêng TP Hồ Chí Minh xếp vị trí thứ 14, nằm ở “nhóm khá”. Đây là năm thứ 2 thành phố ở nhóm này, với 67,5 điểm. Chỉ số dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của TP Hồ Chí Minh năm nay ghi nhận mức cải thiện tốt nhất trong số các chỉ số đánh giá của PCI, với 8,54 điểm (tăng gần 2 điểm so với 2020). Tuy nhiên, các chỉ số về gia nhập thị trường, cạnh tranh bình đẳng hay đào tạo lao động… của thành phố lại chưa có nhiều cải thiện, theo đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp tại đây.
Đánh giá về những thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt, cách thức ứng phó với dịch bệnh Covid-19 và các biện pháp chống dịch do chính quyền địa phương triển khai, đại diện VCCI cho rằng các chính sách trợ giúp doanh nghiệp phục hồi và phát triển sau dịch cần được thiết kế sát với nhu cầu, khả năng phát triển của từng nhóm doanh nghiệp mới có thể phát huy hiệu quả kỳ vọng.
- Trang 5 báo Nhân Dân ngày 25/4/2022
Giải thưởng Sao Khuê góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia
Ngày 23/4 tại Hà Nội, Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) đã tổ chức Lễ công bố và trao Giải thưởng Sao Khuê 2022.

Giải thưởng Sao Khuê trong 2 năm gần đây đã đặt sứ mệnh “Thúc đẩy nền tảng giải pháp số – Tiên phong phát triển các hệ sinh thái số” nhằm góp phần định hướng cộng đồng doanh nghiệp ICT Việt Nam sáng tạo, tiên phong theo những tinh thần của những chủ chương này.
Sự kiện đã được ban tổ chức dày công chuẩn bị với kịch bản kể lại câu chuyện 2 thập kỷ của ngành với 5 chương, cũng là 5 câu chuyện phát triển của ngành trong 20 trước và 20 năm sắp tới.
Hơn 2 thập kỷ xây dựng và phát triển, ngành phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, từ con số không giờ đã xứng đáng trở thành một trong những nền kinh tế mũi nhọn của Việt Nam với: Gần 300 nghìn lao động, doanh thu 2021 đạt trên13 tỷ USD, giải quyết rất nhiều các bài toán ứng dụng công nghệ thông tin của các tổ chức, doanh nghiệp trong nước, luôn nằm trong top 10 các nước hấp dẫn nhất về gia công xuất khẩu phần mềm.
Phát biểu tại lễ trao giải, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, chúng ta đã trải qua thời khắc rất khó khăn và giới công nghệ thông tin, truyền thông đã có những đóng góp rất thiết thực, mặc dù chưa được như chính chúng ta và Ban chỉ đạo chống dịch mong muốn, nhưng cũng đã rất hiệu quả và đóng góp một phần không thể thiếu.
Dịch bệnh một mặt khó khăn nhưng một mặt cũng tạo ra cơ hội để ngành CNTT phát triển. Phó Thủ tướng thể hiện lòng biết ơn những người làm CNTT thầm lặng trong suốt những năm qua để biến khát vọng thành hiện thực.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết ông vừa ký quyết định lấy ngày 10/10 hàng năm là Chuyển đổi số quốc gia. Đây là thời điểm chúng ta cần khơi dậy được không khí khát vọng và sáng tạo của ngành CNTT.
Theo Phó Thủ tướng, xuất phát từ nhu cầu tự thân, ngành CNTT đòi hỏi sự sáng tạo mãnh liệt. Chúng ta cần đốt lên ngọn lửa khát vọng để làm việc gì đó hiệu quả.
“Đại dịch sẽ qua đi, chúng ta cùng nhau khơi dậy và làm thật tốt, có những đóng góp ngày càng xứng đáng để Việt Nam đi nhanh hơn, phát triển bền vững hơn”, Phó Thủ tướng kết luận.
Được phát động ngày 20/1, Giải thưởng Sao Khuê 2022 tiếp tục đạt được “kỷ lục” mới với 314 đề cử từ 229 doanh nghiệp/đơn vị.
Kết quả, 174 nền tảng, dịch vụ, giải pháp số xuất sắc từ 113 cơ quan/doanh nghiệp đã được thống nhất trao giải. Trong đó, 10 Dịch vụ, giải pháp được vinh danh Top 10 Giải thưởng Sao Khuê, 19 Giải thưởng được xếp hạng 5 sao.
Theo số liệu thống kê, 174 sản phẩm, dịch vụ, giải pháp được trao Giải có doanh thu 16 nghìn tỷ đồng, tương đương 696 triệu USD; 80% sản phẩm, giải pháp được trao giải sử dụng các công nghệ tiên phong như Ai, Blockchain, RPA trong đó có những sản phẩm, giải pháp đem lại hiệu quả kinh tế đặc biệt cao.
25 nền tảng số và 17 giải pháp thuộc nhóm công nghệ tiên phong cũng đã được trao Sao Khuê, trong đó có 1 nền tảng số và 1 giải pháp nhóm công nghệ tiên phong xuất sắc được trao Top 10 Sao Khuê 2022.
Ông Nguyễn Văn Khoa, Chủ tịch VINASA cho hay: “Qua những con số ấn tượng của Sao Khuê 2020, có thể thấy rõ các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt đã tiếp cận nhanh chóng các công nghệ mới, đồng thời có sự phân mảnh bài bản trong đầu tư, nghiên cứu các nền tảng, giải pháp tích hợp giữa các doanh nghiệp công nghệ”.
“Những hệ sinh thái số đang dần được hình thành cho các ngành, các lĩnh vực, các thành phần của nền kinh tế, thể hiện sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ với Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông trong chiến lược phát triển Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số, và xung kích cùng các tổ chức, doanh nghiệp trong chuyển đổi số”, ông Khoa nói
Tại sự kiện, nhóm lĩnh vực tài chính, ngân hàng có 17 giải pháp được trao Giải thưởng Sao Khuê 2022 trong đó có 10 đề cử lĩnh vực ngân hàng và 7 đề cử lĩnh vực tài chính.
Theo báo cáo của Hội đồng đánh giá các sản phẩm thuộc lĩnh vực này được đầu tư rất lớn, bài bản, chất lượng giải pháp xuất sắc, đáp ứng tốt nhu cầu của người sử dụng, đem lại hiệu quả tài chính rất cao, tiết kiệm thời gian, nhân sự.
Top 10 là Hạng mục danh giá nhất của Giải thưởng Sao Khuê luôn được trông chờ nhất. Theo báo cáo, 10 sản phẩm, dịch vụ trải đều trong các lĩnh vực như chính phủ số, tài chính số, quản lý điều hành doanh nghiệp, quản lý bán hàng, giáo dục đào tạo, các nền tảng, các sản phẩm mới và các dịch vụ xuất khẩu phần mềm và chuyển đổi số.
Bên cạnh việc lựa chọn Giải thưởng Top 10 Sao Khuê, các đề cử xuất sắc nhất tại mỗi lĩnh vực được thống nhất bình chọn 5 sao. Có 19 giải pháp, dịch vụ công nghệ thông tin thuộc 6 nhóm lĩnh vực được trao Giải thưởng Sao Khuê 5 sao năm 2022.
Được tổ chức lần đầu vào năm 2003, đến năm 2022 đã có tổng cộng 1.343 Sao Khuê xuất sắc được vinh danh.
LÂM THẢO
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 23/4/2022
Phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đại, sinh thái, văn minh và bền vững
Ngày 22/4, tại Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, khóa XIII, về “Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Hội nghị được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại các điểm cầu ở Trung ương, các ban, bộ, ngành, cơ quan trực thuộc Trung ương và các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự, chủ trì và phát biểu chỉ đạo. Cùng chủ trì có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch nước; Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ; Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội; Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư.
Dự Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trong vùng.
Tại Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 13-NQ/TW, khóa XIII, về “Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 13-NQ/TW).
Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị đã cập nhật, bổ sung các quan điểm, chủ trương mới của Đảng thời gian gần đây, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; đồng thời cập nhật, đánh giá bối cảnh mới, tình hình mới tác động đến vùng để xác định các quan điểm, định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ giải pháp toàn diện cho phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong những giai đoạn phát triển tới đây.
Các nhóm quan điểm và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, bao gồm: Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; Phát triển nhanh và bền vững kinh tế vùng; Phát triển văn hóa-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Đại diện các bộ, ngành và nhiều địa phương đã phát biểu tham luận về những nội dung trọng tâm, và các giải pháp nhằm triển khai nhanh chóng đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Phát biểu ý kiến chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, vùng đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới lần này là để tạo ra một bước đột phá mới trong việc phát huy vai trò, vị trí quan trọng đặc biệt và khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng, lợi thế phát triển to lớn của vùng trong giai đoạn mới.
Về tinh thần nội dung mới của Nghị quyết, Tổng Bí thư nhấn mạnh, Nghị quyết đề ra 6 quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ. Nghị quyết tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Yêu cầu phải phát triển nhanh và bền vững, phù hợp vị trí, vai trò chiến lược của vùng; coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương trong vùng và cả nước. Phải đặt vấn đề phát triển vùng trong tổng thể phát triển chung của cả nước, bảo đảm phù hợp Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia; phù hợp chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, thích ứng với biến đổi khí hậu…
Nghị quyết cũng xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phấn đấu đến năm 2030, vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ là vùng sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước. Đến năm 2045, trở thành vùng phát triển toàn diện, sinh thái, văn minh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; có trình độ phát triển khá so với cả nước; cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, hiện đại.
Gợi mở phương pháp, cách làm hiệu quả Nghị quyết, Tổng Bí thư chỉ rõ, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, toàn vùng, từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng. Liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng. Tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển vùng và liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế triển khai; tham gia có hiệu quả vào các hoạt động hợp tác với các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công, nhất là trong việc khai thác, sử dụng nguồn nước sông Mê Công.
Tổng Bí thư đề nghị, Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp các địa phương trong vùng, khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng. Với các địa phương, Tổng Bí thư mong muốn, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng.
Đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng, Tổng Bí thư yêu cầu nghiêm túc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiên phong, gương mẫu về đạo đức và lối sống.
Tổng Bí thư chỉ đạo, ngay sau Hội nghị này, căn cứ vào Nghị quyết và Kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp ủy, tổ chức đảng ở Trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị của các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh.
Tổng Bí thư tin tưởng cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của phong trào “đồng khởi”, khí phách anh hùng “thành đồng” Tổ quốc và phẩm chất cao quý, rất tốt đẹp của người miền Tây; cùng các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh và toàn vùng kinh tế trọng điểm phía nam đã đổi mới, nỗ lực phấn đấu rồi càng đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh trên vùng đồng bằng sông Cửu Long – Vùng đất 9 rồng theo tinh thần: Cả nước vì đồng bằng sông Cửu Long; đồng bằng sông Cửu Long vươn lên cùng cả nước và vì cả nước.
VĂN TOÁN
- Trang 3 báo Nhân Dân ngày 18/4/2022
Vận hành Kho bạc Nhà nước dựa trên dữ liệu số
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước (KBNN) đến năm 2030. Theo đó, hệ thống KBNN sẽ tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hướng tới thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động nghiệp vụ và quản trị nội bộ; tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong toàn hệ thống KBNN.
Với mục tiêu trở thành Kho bạc số, KBNN đưa ra nhiệm vụ và giải pháp cụ thể là xây dựng và triển khai kiến trúc công nghệ thông tin của KBNN phù hợp với kiến trúc Chính phủ điện tử, trong đó, Hệ thống thông tin Ngân sách và Kế toán nhà nước số đóng vai trò là hệ thống lõi, có sự kết nối, liên thông và chia sẻ dữ liệu với Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và các hệ thống khác có liên quan.
Cùng với đó, số hóa các nghiệp vụ KBNN và cung cấp dữ liệu mở về tài chính – ngân sách nhà nước thông qua việc nâng cấp, phát triển Hệ thống thông tin Quản lý ngân sách và Kho bạc và các hệ thống liên quan thành Hệ thống thông tin Ngân sách và Kế toán nhà nước số dựa trên công nghệ hiện đại, cho phép cung cấp các dịch vụ số, phục vụ tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị và có khả năng truy cập, khai thác thông tin rộng rãi.
Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin khác, đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa KBNN; ứng dụng hiệu quả các công nghệ số như điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), di động (Mobility), Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain),… trong xây dựng, triển khai các ứng dụng, dịch vụ Kho bạc số để tối ưu hóa các quy trình quản lý, quản trị và cung cấp dịch vụ của KBNN.
Ngoài ra, KBNN tiếp tục hoàn thiện các hệ thống và giải pháp an toàn bảo mật, dự phòng rủi ro; hệ thống giám sát vận hành và giám sát an toàn bảo mật thông tin, đảm bảo hệ thống công nghệ thông tin luôn được vận hành an toàn, ổn định, thông suốt trong mọi tình huống.
Để thực hiện những mục tiêu này, hiện nay, KBNN đã thực hiện liên thông các ứng dụng nghiệp vụ (dịch vụ công trực tuyến – Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS) – thanh toán song phương điện tử). Đánh giá kết quả triển khai ban đầu cho thấy, việc liên thông đã mang lại kết quả tốt khi đáp ứng kịp thời và phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng ngân sách, nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp khiến nhiều địa phương phải áp dụng giãn cách để đảm bảo phòng chống dịch.
Tại Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2030, KBNN đặt mục tiêu đến năm 2025 cơ bản toàn bộ các giao dịch thu, chi ngân sách nhà nước qua KBNN được thực hiện theo phương thức điện tử (trừ các giao dịch thuộc phạm vi bí mật nhà nước); liên thông dữ liệu số của các khâu lập dự toán, phân bổ, chấp hành, kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách nhà nước; chia sẻ thông tin, dữ liệu thu, chi ngân sách nhà nước theo thời gian thực; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi ngân sách nhà nước theo hướng kiểm soát rủi ro. Sau năm 2025 tập trung nghiên cứu, phát triển các dịch vụ theo nhu cầu của người dân, doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; đến năm 2030 hoàn thành xây dựng Kho bạc số. Đồng thời, phấn đấu kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu Chính phủ đạt từ 9 -11 năm, lãi suất và chi phí phát hành hợp lý, góp phần cơ cấu lại, tăng tính an toàn, bền vững nợ công.
KBNN sẽ cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin về tài chính – ngân sách nhà nước phù hợp với chuẩn mực kế toán công để phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan có thẩm quyền và hoạt động kiểm tra, giám sát, nâng cao tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước. Phấn đấu đến năm 2030, thời gian lập và trình báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước, báo cáo tài chính nhà nước hàng năm giảm từ 6 – 12 tháng so với năm 2020.
- Trang 5 báo Nhân Dân ngày 17/4/2022
Thực hiện quyết liệt các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội
Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, sáng 5/4, Chính phủ tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc đánh giá về tình hình kinh tế – xã hội, chương trình phục hồi và phát triển; việc phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công và triển khai các công trình giao thông quan trọng quốc gia.
Tại điểm cầu Nghệ An, đồng chí Nguyễn Đức Trung – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì. Cùng dự họp có đồng chí Lê Hồng Vinh – Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh.
Theo báo cáo đánh giá, 3 tháng đầu năm 2022 có nhiều chuyển biến tích cực, khởi sắc ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Chương trình tổng thể phòng, chống COVID-19 và chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội được triển khai hiệu quả, lan tỏa, tạo sức bật khôi phục và vươn lên trong mọi lĩnh vực.
Tình hình, diễn biến tháng 3 và quý I có tác động rất lớn tới việc thực hiện nhiệm vụ, giải pháp, mục tiêu đã đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát trong bối cảnh chịu nhiều sức ép; các cân đối lớn của nền kinh tế, an ninh lương thực, an ninh năng lượng được bảo đảm. Đặc biệt, GDP quý I tăng 5,03%, cao hơn tốc độ tăng năm 2021 (4,72%). Dịch bệnh cơ bản được kiểm soát với số ca mắc mới, chuyển nặng, tử vong giảm sâu từ cuối tháng 3, cho thấy rõ hiệu quả của các biện pháp phòng, chống dịch.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hội nghị cũng đã thảo luận chỉ ra những khó khăn, thách thức. Dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, các cân đối lớn còn tiềm ẩn rủi ro; áp lực lạm phát tăng; giá cả đầu vào tăng, đặc biệt là giá xăng dầu; biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt trái mùa và tình hình tội phạm diễn biến phức tạp (nhất là trong lĩnh vực chứng khoán, bất động sản, tội phạm công nghệ cao)…
Kết luận cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gửi lời chia buồn sâu sắc đến các gia đình có người bị nạn trong thiên tai, lũ lụt tại các tỉnh miền Trung thời gian qua.
Đánh giá tình hình kinh tế – xã hội quý I, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, tác động rất lớn tới việc thực hiện nhiệm vụ, giải pháp, mục tiêu đã đề ra. Ở trong nước, tình hình dịch bệnh, giá nguyên liệu tăng cao, nhiều vấn đề kinh tế-xã hội tồn đọng, kéo dài… đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế.
Dự báo trong thời gian tới tình hình sẽ tiếp tục có thuận lợi, cơ hội, khó khăn, thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi. Cơ bản đồng tình với các nhiệm vụ, giải pháp được nêu tại phiên họp, Thủ tướng nhấn mạnh, chúng ta đã quyết tâm thì phải quyết tâm hơn nữa, tập trung có trọng tâm, trọng điểm trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trong công tác chỉ đạo, điều hành. Mặt khác, phải tăng cường tính tự lực, tự cường hơn nữa; sắp xếp, rà soát lại nguồn lực. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện 12 nhóm giải pháp chủ yếu. Trước hết là thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phòng chống dịch Covid-19, phục hồi và phát triển kinh tế… Tập trung giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô bằng mọi biện pháp; bám sát tình hình, diễn biến thị trường trong và ngoài nước để bảo đảm các cân đối lớn, không để bị động, bất ngờ; Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho hoạt động sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, thương mại điện tử…
Các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh cơ cấu, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh tốc độ phục hồi các lĩnh vực, đặc biệt là du lịch; Coi trọng phát triển văn hóa, xã hội, y tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân; tổ chức các hình thức dạy học an toàn.
Các địa phương phải có giải pháp đảm bảo cung cầu lao động; chủ động đẩy mạnh cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng tiêu cực; Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong bất cứ hoàn cảnh nào, đồng thời giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, an ninh, an toàn, để người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư yên tâm sinh sống, làm việc, mở rộng sản xuất kinh doanh; Theo dõi sát tình hình diễn biến của thế giới để xử lý nhanh.
Các cơ quan truyền thông dành nhiều thời lượng hướng dẫn các biện pháp phòng, chống dịch; phục hồi kinh tế; phát triển văn hóa.
Đối với các dự án giao thông trọng điểm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phải giải quyết tốt công tác GPMB, tạo đồng thuận trong nhân dân, đảm bảo nơi ở mới cao hơn nơi ở cũ; Làm tốt công tác quy hoạch, quản lý, khai thác các mỏ nguyên vật liệu. Chủ động lập các dự án quy hoạch lâu dài, ổn định và có tầm nhìn chiến lược./.
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 16/4/2022
Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
Ngày 15/4, tại Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Hội nghị được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại các điểm cầu ở Trung ương, các ban, bộ, ngành, cơ quan trực thuộc Trung ương và các tỉnh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự, chủ trì và phát biểu chỉ đạo. Cùng chủ trì có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch nước; Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ; Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội.
Dự Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh trong vùng.
Tại Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 11-NQ/TW). Nghị quyết số 11-NQ/TW đã kế thừa, bổ sung, phát triển các quan điểm của Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị thành các quan điểm chỉ đạo mới, phù hợp với tình hình, bối cảnh mới.
Nghị quyết xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp được Nghị quyết nhấn mạnh là: Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển và liên kết vùng; tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng. Phát triển nhanh và bền vững kinh tế vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn bình quân chung cả nước. Phát triển văn hóa-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh. Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Đại diện các bộ, ngành và nhiều địa phương đã phát biểu tham luận về những nội dung trọng tâm và các giải pháp nhằm triển khai nhanh chóng đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Phát biểu ý kiến chỉ đạo tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các địa phương trong Vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của Vùng. Hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, được quan tâm đầu tư, giúp cải thiện đáng kể sự kết nối giữa các tỉnh trong Vùng và giữa Vùng với cả nước. Một số địa phương đã có sự phát triển bứt phá, tạo nên những điểm sáng trong Vùng và cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ cũng còn không ít hạn chế, yếu kém. Thực tế trên đây đã đặt ra yêu cầu chúng ta phải tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX; Kết luận số 26-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI và ban hành Nghị quyết mới về vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Về tinh thần nội dung mới của Nghị quyết, Tổng Bí thư nhấn mạnh: Có nhiều nội dung thể hiện rất rõ tinh thần đổi mới, quyết tâm rất cao của Đảng ta quyết tạo sự chuyển biến có tính đột phá trong phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Nghị quyết lần này đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, thể hiện rõ khát vọng, ý chí và quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, nhất là cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc trong vùng.
Nghị quyết cũng đề ra đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và bối cảnh tình hình mới.
Gợi mở phương pháp, cách làm nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết, Tổng Bí thư chỉ rõ: Trước hết phải quán triệt thật đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm. Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành, của người dân và cộng đồng các doanh nghiệp về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Vùng. Đổi mới tư duy phát triển, nhất là về liên kết vùng, tiểu vùng; về cơ chế, chính sách đặc thù; về phân bổ nguồn lực; về nguồn nhân lực và tiềm năng, lợi thế nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, các tiểu vùng và từng tỉnh trong vùng, tiểu vùng; giải quyết các vấn đề trọng điểm quốc gia tại vùng; các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tiểu vùng.
Các cơ quan ở Trung ương phải tăng cường khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển Vùng. Xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia. Đối với các địa phương trong vùng, Tổng Bí thư mong muốn phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, lòng yêu nước; tinh thần chủ động, sáng tạo; ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân; quyết tâm vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng bằng lòng, trung bình chủ nghĩa, không cam chịu đói nghèo, thua kém các tỉnh khác, vùng khác.
Đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng, Tổng Bí thư yêu cầu đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có sự chuyển giao, kế thừa chặt chẽ giữa các thế hệ. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và đoàn thể nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; phát huy cao độ truyền thống ý văn hoá, cách mạng; sự cần cù và ý chí tự lực, tự cường của nhân dân trong vùng. Xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân trong vùng với nhân dân các nước bạn láng giềng.
Tổng Bí thư chỉ đạo, căn cứ vào Nghị quyết và Kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp ủy và tổ chức đảng ở Trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị của các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh.
Tổng Bí thư tin tưởng sau Hội nghị, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong vùng trung du, miền núi Bắc Bộ sẽ cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, nhất là Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh và toàn vùng kinh tế trọng điểm phía bắc đã quyết tâm rồi càng quyết tâm cao hơn nữa; đã đổi mới, nỗ lực phấn đấu rồi càng tiếp tục đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, để tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức; thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo bước chuyển biến mới, có tính đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; cùng với cả nước tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nỗ lực phấn đấu, tạo chuyển biến có tính đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới, theo tinh thần: Cả nước vì trung du và miền núi Bắc Bộ; trung du và miền núi Bắc Bộ vượt khó vươn lên cùng cả nước và vì cả nước.
- Trang 4 báo Nhân Dân ngày 16/4/2022
Diễn đàn Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh năm 2022
Dịch Covid-19 đi qua để lại những hậu quả nặng nề nhưng cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển đổi số ở cả ba nội dung: Chính quyền số, doanh nghiệp số và xã hội số. Đây cũng chính là nền tảng để thành phố Hồ Chí Minh triển khai mạnh mẽ hơn chương trình chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, tái cơ cấu nền kinh tế trên nền tảng kỹ thuật số của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Trong chiến lược phát triển chuyển đổi số, thành phố Hồ Chí Minh đặt ra mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số đóng góp khoảng 25%; đến năm 2030 đóng góp 40% trong GRDP của thành phố. Thành phố cũng xác định chuyển đổi số là định hướng mới nhằm phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, thích ứng trong điều kiện bối cảnh còn nhiều biến động, trong đó có diễn biến khó lường của dịch Covid-19.
Mới đây, thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức diễn đàn kinh tế với chủ đề “Kinh tế số: Động lực tăng trưởng và phát triển thành phố trong tương lai”. Theo Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi, thành phố đặt mục tiêu đến năm 2025 là đô thị thông minh, thành phố dịch vụ, công nghiệp theo hướng hiện đại, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Đến năm 2030, là thành phố dịch vụ, công nghiệp hiện đại, thành phố văn hóa, đầu tàu về kinh tế số, xã hội số, chính quyền số; là trung tâm về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học và công nghệ, văn hóa của khu vực Đông Nam Á.
Thành phố cũng tập trung triển khai các chương trình, đề án cụ thể liên quan trực tiếp đến mục tiêu xây dựng nền kinh tế số như hợp tác về chuyển đổi số trong khuôn khổ hợp tác chung giữa thành phố và Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Tập trung giải quyết vấn đề liên thông, kết nối dữ liệu ở phạm vi toàn thành phố và phát triển kho dữ liệu dùng chung, dữ liệu mở để người dân, doanh nghiệp, chính quyền có thể đẩy mạnh hợp tác cùng xây dựng một hệ sinh thái sản phẩm tiện ích có giá trị cao, kiến tạo môi trường khuyến khích sáng tạo và khởi nghiệp. Phát triển đồng bộ hạ tầng số phục vụ kinh tế số và xã hội số theo Đề án phát triển hạ tầng viễn thông và Kế hoạch phát triển hạ tầng số thành phố giai đoạn 2020-2030…
Nhiều chuyên gia nhận định, việc thành phố tập trung chuyển đổi số là hướng đi đúng theo xu thế của thế giới; đồng thời phát huy tiềm năng, thế mạnh của thành phố, địa phương phát triển mạnh về khoa học và công nghệ. Đây là tiền đề quan trọng không chỉ giúp thành phố tăng năng suất sản xuất, kinh doanh mà còn là trụ cột thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai. Tuy nhiên, những rào cản về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực kinh tế số, các giải pháp công nghệ, cơ chế chính sách… đang “kìm chân” kinh tế số phát triển.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Cành, Trường đại học Kinh tế-Luật thành phố Hồ Chí Minh cho biết, hiện 10 ngành được thành phố ưu tiên chuyển đổi số là y tế, giáo dục, giao thông vận tải, tài chính-ngân hàng, du lịch, nông nghiệp, logistics, môi trường, năng lượng và đào tạo nhân lực. Để đạt được các mục tiêu trên, thành phố cần các chính sách và nguồn lực đủ mạnh để phát triển kinh tế số. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đạt được các mục tiêu theo các chương trình chuyển đổi số và xây dựng thành phố trở thành đô thị thông minh.
Cũng theo bà Nguyễn Thị Cành, thành phố trước tiên phải nhận thức rằng, kinh tế số phát triển dựa vào nhiều yếu tố, trong đó có bốn trụ cột quan trọng: Thể chế số; nhân lực số; công nghệ số và hạ tầng số. Về thể chế, trên bình diện quốc gia đã có các văn bản pháp lý cho các địa phương thực hiện. Ở góc độ chính quyền địa phương, thành phố đã có những văn bản, chương trình phát triển kinh tế số. Dù khuôn khổ thể chế phát triển kinh tế số đã và đang trong quá trình xây dựng, hình thành nhưng thành phố đã có những chương trình cụ thể để phát triển kinh tế số. Thể chế số cụ thể sẽ gắn liền với phát triển từng trụ cột của kinh tế số.
Nhận định về chuyển đổi số trong doanh nghiệp ở thành phố, tầm nhìn và khát vọng đến năm 2030, Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hồ Chí Minh Võ Thị Trung Trinh cho rằng, việc chuyển đổi số giúp doanh nghiệp sáng tạo, đổi mới các mô hình kinh doanh, sản xuất dựa trên những tiến bộ của các công nghệ số. Chuyển đổi số nhanh hay chậm phụ thuộc vào bản chất của từng lĩnh vực kinh tế, vào sự sẵn sàng của các công cụ nền tảng kỹ thuật số và sự chủ động, tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm của từng doanh nghiệp. Do đó, từng doanh nghiệp, đơn vị cần xác định lộ trình riêng, thích hợp với tình hình thực tế của mình. Để chuyển đổi số thành công, doanh nghiệp cần hiểu đúng, đầy đủ các vấn đề cốt lõi trong chuyển đổi số. Cụ thể, phải nhận thức và tư duy đúng; xây dựng được chiến lược và lộ trình chuyển đổi số; xây dựng năng lực số như hạ tầng thiết bị và dữ liệu, đào tạo nhân lực số; xác định mô hình hoạt động, kinh doanh mới…
Các nhà chuyên môn cho rằng, thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng chuyển đổi số thành công. Nguyên nhân là do doanh nghiệp chọn giải pháp không phù hợp với hoàn cảnh của doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp cần thực hiện ba bước: Chuyển đổi con người, phương thức kinh doanh, chuyển đổi công nghệ. Trong đó, chuyển đổi con người là quan trọng nhất. Ở đây, người lãnh đạo đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, là người phải có tầm nhìn, chọn giải pháp phù hợp, tạo được sự đồng thuận cao trong đơn vị, doanh nghiệp…
Bài và ảnh: KHÁNH TRÌNH
- Trang 2 báo Nhân Dân ngày 26/4/2022
Công bố quyết định công nhận Khu du lịch quốc gia Tam Đảo
Tối 29/4, tại huyện Tam Đảo, UBND tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức lễ công bố Quyết định công nhận Khu du lịch quốc gia Tam Đảo và chương trình du lịch hè Vĩnh Phúc năm 2022 với chủ đề “Vĩnh Phúc – Điểm hẹn chân mây”.

Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc Lê Duy Thành khẳng định, việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Khu du lịch quốc gia Tam Đảo thể hiện sự trân trọng và ghi nhận những cố gắng, nỗ lực và thành công bước đầu của ngành du lịch tỉnh Vĩnh Phúc.
Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để bạn bè trong nước và quốc tế biết đến nhiều hơn các giá trị di sản văn hóa, thiên nhiên và danh thắng độc đáo của khu du lịch Tam Đảo. Tỉnh Vĩnh Phúc coi đây là cơ hội vàng để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ, du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương.
Tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Tam Đảo sẽ tập trung khai thác các giá trị văn hóa, lịch sử của quần thể di tích Quốc gia đặc biệt Tây Thiên để tạo nên sự khác biệt, góp phần tạo dựng thương hiệu khu du lịch quốc gia Tam Đảo. Đồng thời, chú trọng khai thác các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số và các giá trị sinh thái vườn quốc gia Tam Đảo, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có chất lượng, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh với các vùng miền trong cả nước. Thời gian tới, Vĩnh Phúc sẽ tăng cường liên kết phát triển du lịch với các tỉnh trong khu vực và cả nước, đưa Tam Đảo trở thành một trọng điểm du lịch của quốc gia.
Nhân dịp này, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu trao Quyết định công nhận khách sạn Venus Tam Đảo thuộc Công ty Cổ phần Lạc Hồng là khách sạn đạt tiêu chuẩn 4 sao. Đây là khách sạn 4 sao đầu tiên tại thị trấn du lịch Tam Đảo. Khách sạn Venus sở hữu 198 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế, được xây dựng theo kiến trúc đặc trưng châu Âu.
HÀ HỒNG HÀ
- Trang 2 báo Nhân Dân ngày 27/4/2022
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc gửi thư khen các công nhân dũng cảm cứu người đuối nước
Trong Thư, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ xúc động được biết, ngay khi phát hiện người bị đuối nước, ông Nguyễn Hữu Hiền, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh xã Thanh Hòa, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và em Nguyễn Văn Dương, học sinh lớp 8, Trường Trung học cơ sở Minh Lạc, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã không ngại nguy hiểm, kịp thời lao xuống dòng nước, gắng hết sức mình lần lượt kéo người đuối nước vào bờ, tiến hành sơ cứu, hô hấp nhân tạo và đã cứu sống nhiều người.
Chủ tịch nước đánh giá cao hành động can đảm trên của ông Hiền và em Dương; nêu rõ đây là những tấm gương sáng về tinh thần quả cảm, nghĩa hiệp, sâu đậm bản sắc văn hóa, của dân tộc Việt Nam, xứng đáng được biểu dương, khen ngợi và lan tỏa trong cộng đồng.
Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng ông Nguyễn Hữu Hiền cũng như các thế hệ cựu chiến binh sẽ luôn phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, gương mẫu, làm tốt việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tin tưởng em Nguyễn Văn Dương và các em học sinh sẽ không ngừng phấn đấu, đạt được nhiều thành tích trong học tập, trở thành công dân tốt, hữu ích cho nước nhà.
Nhân dịp này, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị các cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh việc hướng dẫn, khuyến cáo, tập huấn tới người dân, gia đình và trường học về nguy cơ đuối nước; trang bị những kỹ năng cần thiết để phòng tránh và cách thức xử lý tai nạn đáng tiếc xảy ra, giúp cho cuộc sống an toàn và hạnh phúc.
Chủ tịch nước chúc gia đình ông Nguyễn Hữu Hiền và gia đình em Nguyễn Văn Dương luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
- Trang 5 báo Nhân Dân ngày 27/4/2022
Đón nhận danh hiệu di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Theo thông tin từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ đã ban hành các Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với 7 di tích tại các địa phương trong cả nước, đồng thời bổ sung thêm 1 di tích vào quần thể di tích đã được xếp hạng.
Tại Quyết định số 886/QĐ-BVHTTDL, xếp hạng di tích quốc gia Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Mão Chinh, xã Dương Quang, thị xã Mỹ Hào.
Đình Mão Chinh là nơi tôn thờ Thành hoàng làng Đỗ Anh Vũ – vị quan đại thần dưới triều Lý, phối thờ cùng ngài là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn (con trưởng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) – vị tướng tài trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông vào cuối thế kỷ XIII.
Đình được khởi dựng từ sớm và được trùng tu vào các thời Hậu Lê, Nguyễn. Hiện tại đình có bố cục mặt bằng tổng thể hình chữ Đinh. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ với nhiều mảng chạm khắc đẹp thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: tứ linh, tứ quý, tùng lộc, chim trĩ,… mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Hậu Lê, thời Nguyễn. Ngoài ra, tại đình còn lưu giữ nhiều di vật tiêu biểu có giá trị như: sắc phong (thời Lê, Nguyễn), bia đá, ngai và bài vị,…
Tại Quyết định số 887/QĐ-BVHTTDL, đã xếp hạng di tích quốc gia Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Thanh Sầm, xã Đồng Thanh, huyện Kim Động.
Đình Thanh Sầm là một công trình tôn giáo tín ngưỡng đồ sộ, mang trên mình những đặc điểm nổi bật của ngôi đình truyền thống. Đình là nơi tôn thờ Nhị vị Thành hoàng làng: Hướng Thiện Ninh Quốc Đại Vương (Phạm Thiện) và Đạo Quang Vĩnh Yên Đại Vương (Phạm Quang) thời vua Hùng Vương. Hai vị đã có công giúp các vua, các tướng dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Đình được khởi dựng vào khoảng thời Hậu Lê và được trùng tu vào thời Nguyễn. Hiện tại Đình có bố cục mặt bằng tổng thể kiểu Tiền nhất hậu Đinh. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng vật liệu gỗ tứ thiết với nhiều mảng chạm khắc đẹp thể hiện các đề tài tứ linh, tứ quý,… mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Nguyễn. Hiện nay, đình Thanh Sầm còn bảo lưu nhiều di vật tiêu biểu có giá trị như sắc phong thời Nguyễn, thần tích, đại tự, câu đối,…
Tại Quyết định số 885/QĐ-BVHTTDL và Quyết định số 884/QĐ-BVHTTDL, xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia Đình Thượng Hiền và Đình Đa Cốc, xã Nam Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Đình làng Đa Cốc thờ tứ vị thành hoàng: Đông Hải, Tây Hải, Cao Sơn, Trưởng Thái giám và thờ các vị thủy tổ cùng chân linh các anh hùng liệt sĩ của làng.
Ngôi đình được xây dựng năm Ất Dậu (1705), thời vua Lê Dụ Tông, cách đây 313 năm. Trong ngôi đình còn lưu giữ nhiều đồ cổ quý như: bức cuốn thư thời Lê Trung Hưng; long ngai, bài vị, quán tẩy, bát nhang, các câu đối và 6 sắc phong của vua Cảnh Hưng, vua Khải Định.
Tại Quyết định số 883/QĐ-BVHTTDL, xếp hạng di tích quốc gia đối với di tích kiến trúc nghệ thuật Miếu Giai, xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư, Thái Bình.
Miếu Giai là nơi thờ đức thánh Hồng Võ Đại Vương-Nguyễn Thiện, một trung thần triều đại vua Hùng vương thứ 18. Hiện nay Miếu Giai còn lưu giữ được 30 sắc phong của các đời Lê, Nguyễn, trải dài từ thời Hồng Đức thứ 28 (1497) đến thời Khải Định thứ 9 (1924) ban tặng cho Hồng Võ Đại Vương. Trong đó, có đạo sắc năm Hồng Đức thứ 28 là một trong những sắc phong cổ nhất còn lưu giữ lại của tỉnh Thái Bình. Miếu có kiến trúc theo kiểu tiền nhất-hậu đinh với tổng cộng 13 gian, là kho cổ vật có giá trị về nghệ thuật như: các bức đại tự, câu đối, nhang án, long đình…
Tại Quyết định số 892/QĐ-BVHTTDL, xếp hạng di tích quốc gia đối với di tích lịch sử Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lào Cai (23-24/9/1958), phường Lào Cai, TP Lào Cai.
Tại Quyết định số 890/QĐ-BVHTTDL, xếp hạng di tích quốc gia đối với cụm di tích đền Măng Sơn, đình Sơn Trung và đình Sơn Đông tại xã Sơn Đông, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
Đền Măng Sơn được coi là Nam Cung điện, trong số Ngũ cung ở quanh khu vực Ba Vì, tương truyền đền được xây dựng từ thế kỷ XVI, trùng tu lại vào thế kỷ XVIII. Đền Măng Sơn thờ Tản Viên Sơn Thánh – vị thần đứng đầu trong hàng “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam – người đã có công trị thủy, bảo vệ mùa màng để người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Đền Măng Sơn hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý như: 1 tấm bia đá bốn mặt “Măng Sơn tự bi ký“, kích thước khá lớn, tạo tác năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746), đôi nghê gỗ đứng trên một cột trụ vuông mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17, một số di vật như sắc phong, ngai, bài vị, bát hương, hoành phi với niên đại từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20…
Hai ngôi đình Sơn Đông và đình Sơn Trung được xây dựng cùng thời với đền Măng Sơn. Sau nhiều lần tu sửa, hai ngôi đình mang phong cách nghệ thuật kiến trúc cuối thời Nguyễn. Hiện các bộ vì ở Đại bái còn giữ được kết cấu kiến trúc và các hoa văn trang trí mang phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ 20…
Tại Quyết định số 881/QĐ-BVHTTDL, Sửa đổi, bổ sung Điều 1 Quyết định số 601/QĐ-BVHTTDL ngày 2/3/2018 của Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch như sau: Xếp hạng di tích quốc gia đối với Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quần thể đền Cao (gồm đền Cao, đền Bến Tràng, đền Cả, đền Bến Cả, đền thờ Vua Lê Đại Hành), thuộc phường An Lạc, TP Chí Linh, Hải Dương. Năm 2018, quần thể đền Cao đã được xếp hạng Di tích cấp quốc gia nhưng chưa có đền thờ Vua Lê Đại Hành trong quyết định.
TUYẾT LOAN
- Trang 5 báo Nhân Dân ngày 1/4/2022
An Giang khai mạc ngày hội mắm Châu Đốc
Tối 20/4, Ngày hội Mắm Châu Đốc, An Giang – Đặc sản các vùng miền năm 2022 đã khai mạc tại thành phố Châu Đốc.
Là hoạt động trong chuỗi sự kiện chào mừng Kỷ niệm 190 năm thành lập tỉnh An Giang (1832-2022), Ngày hội thu hút 180 gian hàng của 150 đơn vị đến từ An Giang và 19 tỉnh, thành phố trong cả nước tham gia, chia làm 3 khu vực: Khu trưng bày giới thiệu sản phẩm đặc sản An Giang; khu triển lãm các tỉnh, thành phố; khu không gian văn hóa ẩm thực và giao lưu văn hóa cộng đồng.
Khu trưng bày giới thiệu “Đặc sản các vùng miền năm 2022” triển lãm theo 4 chuyên đề chính: Mắm – lúa gạo – thủy sản – khô. Khu vực triển lãm tôn vinh ngành Mắm An Giang sẽ tạo điểm nhấn, giới thiệu quá trình hình thành, phát triển làm nên thương hiệu của nghề làm Mắm Châu Đốc – An Giang.
Một điểm nổi bật khác tại Ngày hội là Ngôi nhà chung triển lãm “An Giang – tiềm năng – cơ hội đầu tư”. Tại đây trưng bày, giới thiệu sản phẩm của tỉnh An Giang, kèm theo đó là 4 gian nhà truyền thống kết hợp tái hiện đời sống sinh hoạt hàng ngày văn hóa, văn nghệ, ẩm thực của 4 dân tộc anh em Kinh – Khmer – Chăm – Hoa đang sinh sống trên địa bàn tỉnh An Giang.
Phát biểu khai mạc Ngày hội, ông Trần Anh Thư, Phó Chủ tịch UBND tỉnh bày tỏ hy vọng sự kiện “Ngày hội Mắm Châu Đốc, An Giang – Đặc sản các vùng miền năm 2022” sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kết nối cung – cầu hàng hóa giữa các nhà sản xuất và các đầu mối tiêu thụ, định hướng phát triển sản xuất sản phẩm theo nhu cầu phát triển của thị trường; đẩy mạnh xây dựng thương hiệu các sản phẩm; hỗ trợ nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác hoàn thành chỉ tiêu chất lượng, nhãn hiệu của từng sản phẩm làm ra.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, tại Ngày hội lần này, sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp giao thương, liên kết, hợp tác kinh doanh, đầu tư, quảng bá thương hiệu, sản phẩm của mình đến người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh, từng bước đưa sản phẩm thâm nhập thị trường Campuchia. Ngày hội cũng là điểm đến tham quan, mua sắm của nhân dân tỉnh An Giang và khách tham quan du lịch đến từ khắp cả nước, trên tinh thần thực hiện mục tiêu kép: vừa kiểm soát, phòng, chống dịch COVID-19, vừa đảm bảo phát triển kinh tế – xã hội.
Ông Trần Anh Thư cho rằng, qua sự kiện này, không chỉ các đơn vị mở rộng được thị trường mà mặt khác tỉnh An Giang cũng có thêm cơ hội quảng bá, giới thiệu sản phẩm đặc trưng, ẩm thực đa dạng, phong phú và nét đẹp văn hóa truyền thống của 4 dân tộc Kinh – Khmer – Chăm – Hoa sinh sống tại tỉnh An Giang nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Tại lễ khai mạc, Tổ chức kỷ lục Việt Nam (VietKings) đã trao bằng và huy hiệu xác nhận kỷ lục “Thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang – Địa phương có nhiều cơ sở sản xuất mắm Nam bộ nhất tại Việt Nam”. Ban Tổ chức Ngày hội mắm Châu Đốc, An Giang – Đặc sản các vùng miền năm 2022 đã vinh danh, trao kỷ vật tặng 17 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh mắm truyền thống, những đơn vị góp phần tạo nên danh tiếng nghề mắm hơn trăm năm qua của vùng đồng bằng châu thổ; đồng thời tri ân những địa phương có chương trình biểu diễn cộng đồng tại ngày hội, gồm các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long An và các địa phương trên địa bàn tỉnh An Giang.
Ngày hội mắm Châu Đốc, An Giang – Đặc sản các vùng miền năm 2022 diễn ra từ ngày 20 – 24/4 tại Quảng trường phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc.
- Trang 2 báo Nhân Dân ngày 20/4/2022
Khai mạc Ngày Sách và văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 1 – năm 2022
Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã khai mạc ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 1 năm 2022. Tham dự có đại diện lãnh đạo một số sở, ngành, đoàn thể và đông đảo các em học sinh trên địa bàn thành phố Đà Lạt
Phát biểu khai mạc, đại diện lãnh đạo Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Lâm Đồng khẳng định sách có vai trò quan trọng trong cuộc sống , đọc sách từ lâu đã trở thành nhu cầu cần thiết của xã hội loài người. Do vậy, khuyến khích, phát triển phong trào đọc sách trong toàn dân chính là động lực, là công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu phấn đấu xây dựng nền tảng tri thức trong mỗi con người, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Trong khuôn khổ ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam diễn ra từ ngày 21 -23.4, với nhiều hoạt động hưởng ứng như triển lãm giới thiệu 12 không gian trưng bày triển lãm sách, báo, tạp chí; triển lãm tranh covid trong mắt trẻ thơ; giao lưu tọa đàm với các nhà văn dịch giả nổi tiếng…
Cũng nhân dịp này, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Lâm Đồng tặng giấy khen cho 5 tập thể và 4 cá nhân vì đã có thành tích đóng góp cho sự nghiệp phát triển văn hóa đọc trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng./.
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 18/4/2022
Quy định mới trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 24/2022/NÐ-CP sửa đổi, bổ sung các nghị định quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
Theo đó, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên và doanh nghiệp bị đình chỉ hoạt động giáo dục nghề nghiệp nếu không cập nhật văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp do cơ sở mình cấp trên Trang Thông tin tra cứu văn bằng giáo dục nghề nghiệp tại địa chỉ http://vanbang.gdnn.gov.vn nhằm tăng cường quản lý giáo dục, giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân dễ dàng tra cứu, hạn chế tình trạng gian lận.
Nghị định cũng quy định rõ trường hợp cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên và doanh nghiệp bị đình chỉ hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên và doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp tại trụ sở chính thì được đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với các trường hợp sau:
Bổ sung ngành, nghề, trình độ đào tạo mới; vượt quá 10% tổng quy mô tuyển sinh/năm của các ngành, nghề trong cùng nhóm ngành, nghề tại từng địa điểm được cấp trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp; chia, tách, sáp nhập cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên và doanh nghiệp; thành lập phân hiệu có tổ chức hoạt động đào tạo hoặc bổ sung địa điểm đào tạo ngoài địa điểm đào tạo được cấp trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp; chuyển trụ sở chính hoặc phân hiệu hoặc địa điểm đào tạo đến nơi khác, mà phân hiệu hoặc địa điểm đào tạo là nơi trực tiếp tổ chức đào tạo; đổi tên doanh nghiệp…
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 16/4/2022
Bế mạc Hội báo toàn qốc năm 2022
Sáng 13/4, tại Bảo tàng Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam và UBND thành phố Hà Nội chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Lễ khai mạc Hội Báo toàn quốc năm 2022 với chủ đề “Báo chí Việt Nam đoàn kết, chuyên nghiệp, hiện đại và nhân văn”.



Đến dự lễ khai mạc có các đồng chí: Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
- Trang 1 báo Nhân Dân ngầy 27/4/2022
Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật
Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật Cảnh cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận các nhiệm kỳ 2010 – 2015, 2015 – 2020, Ban cán sự đảng UBND tỉnh Bình Thuận các nhiệm kỳ 2011 – 2016, 2016 – 2021. Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật Khai trừ ra khỏi Đảng đối với các đồng chí: Nguyễn Ngọc Hai, Lương Văn Hải, Hồ Lâm, Võ Tấn Thái, Lê Văn Dẽ, Diệp Dũng; Cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với đồng chí Lê Tiến Phương.
Ngày 26/4, tại Trụ sở Trung ương Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Bộ Chính trị, Ban Bí thư để xem xét, thi hành kỷ luật. Sau khi xem xét đề nghị của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhận thấy:
Nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận nhiệm kỳ 2010 – 2015 và nhiệm kỳ 2015 – 2020, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận nhiệm kỳ 2011 – 2016 và nhiệm kỳ 2016 – 2021 đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát để Ủy ban nhân dân tỉnh và nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong quản lý, sử dụng đất, thực hiện một số dự án; để một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ chủ chốt của tỉnh bị khởi tố, bắt tạm giam.
- Đồng chí Huỳnh Văn Tí, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận (nhiệm kỳ 2005 – 2010, 2010 – 2015)chịu trách nhiệm chính, trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2010 – 2015; chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc chủ trì họp cho chủ trương về phương án quy hoạch chi tiết Dự án Khu đô thị du lịch biển Phan Thiết có nội dung vi phạm quy định của pháp luật.
- Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy (nhiệm kỳ 2015 – 2020); nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Bình Thuận (nhiệm kỳ 2010 – 2015) chịu trách nhiệm chính, trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020; cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2010 – 2015; chịu trách nhiệm trực tiếp, trách nhiệm cá nhân trong việc ký một số kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho chủ trương quy hoạch chi tiết và phương pháp, cách thức xác định giá đất của Dự án Khu đô thị du lịch biển Phan Thiết có nội dung vi phạm quy định của pháp luật.
- Đồng chí Lê Tiến Phương, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy (nhiệm kỳ 2005 – 2010, 2010 – 2015); nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận (nhiệm kỳ 2011 – 2016) cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2010 – 2015; chịu trách nhiệm chính, trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 2011 – 2016; chịu trách nhiệm trực tiếp, trách nhiệm cá nhân trong việc ký các văn bản vi phạm pháp luật về đất đai, đầu tư, nhà ở,…
- Đồng chí Nguyễn Ngọc Hai, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy (nhiệm kỳ 2015 – 2020); nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận (nhiệm kỳ 2016 – 2021)cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020; chịu trách nhiệm chính, trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 2016 – 2021; chịu trách nhiệm trực tiếp, trách nhiệm cá nhân trong việc ký các văn bản vi phạm pháp luật về đất đai, đầu tư,…
- Đồng chí Lương Văn Hải, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy (nhiệm kỳ 2015 – 2020), nguyên Phó Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận (nhiệm kỳ 2016 – 2021)cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020, của Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 2016 – 2021; chịu trách nhiệm trực tiếp, trách nhiệm cá nhân trong việc ký các văn bản vi phạm pháp luật về đất đai, nhà ở, xây dựng,…
- Đồng chí Hồ Lâm, nguyên Tỉnh ủy viên (nhiệm kỳ 2015 – 2020), nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận (giai đoạn 2014 – 2020)chịu trách nhiệm chính, trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của Sở Tài nguyên và Môi trường giai đoạn từ tháng 3/2014 đến tháng 11/2020; chịu trách nhiệm trực tiếp, trách nhiệm cá nhân trong việc ký các văn bản vi phạm pháp luật về đất đai, đầu tư,…
- Đồng chí Võ Tấn Thái, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hoà đã ký các văn bản tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các quyết định có nội dung trái pháp luật về đầu tư, quản lý, sử dụng đất tại Dự án sinh thái tâm linh Cửu Long Sơn Tự thuộc khu vực núi Chín Khúc.
- Đồng chí Lê Văn Dẽ, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Khánh Hòa đã ký các văn bản tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các quyết định trái pháp luật về thẩm định quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng để chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện Dự án Khu biệt thự và du lịch sinh thái Vĩnh Trung.
- Đồng chí Diệp Dũng, nguyên Thành ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định về trách nhiệm nêu gương; ký các hợp đồng hợp tác đầu tư, nghị quyết, thông báo triển khai huy động vốn, tăng vốn điều lệ, tổ chức Đại hội thành viên năm 2020 trái pháp luật và quy định của Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
Gây hậu quả nghiêm trọng và rất nghiêm trọng
Những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận các nhiệm kỳ 2010 – 2015, 2015 – 2020, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận các nhiệm kỳ 2011 – 2016, 2016 – 2021 và các đồng chí: Huỳnh Văn Tí, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Tiến Phương, Nguyễn Ngọc Hai, Lương Văn Hải, Hồ Lâm đã gây hậu quả nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, thiệt hại lớn tiền và tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, phát sinh nhiều đơn, thư tố cáo, phản ánh kéo dài, ảnh hưởng xấu đến uy tín của cấp uỷ và chính quyền địa phương.
Vi phạm của các đồng chí: Võ Tấn Thái, Lê Văn Dẽ, Diệp Dũng gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng, mất uy tín cá nhân.
Kỷ luật Cảnh cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận các nhiệm kỳ 2010 – 2015, 2015 – 2020
Căn cứ nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm, theo quy định của Đảng về xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật Cảnh cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận các nhiệm kỳ 2010 – 2015, 2015 – 2020, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận các nhiệm kỳ 2011 – 2016, 2016 – 2021 và đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng; Khiển trách đồng chí Huỳnh Văn Tí.
Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật Khai trừ ra khỏi Đảng đối với các đồng chí: Nguyễn Ngọc Hai, Lương Văn Hải, Hồ Lâm, Võ Tấn Thái, Lê Văn Dẽ, Diệp Dũng; Cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với đồng chí Lê Tiến Phương.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề nghị các cơ quan xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính theo đúng quy định đối với các tập thể, cá nhân đã xử lý kỷ luật đảng.
- Trang 1 báo Nhân Dân ngày 22/4/2022
Thông cáo báo chí kỳ họp thứ 14 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Trong hai ngày 19 và 20/4/2022, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp Kỳ thứ 14. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp.
Tại Kỳ họp này, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã xem xét, kết luận một số nội dung sau:
I- Xem xét kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) và đồng chí Diệp Dũng, nguyên Thành ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co.op, UBKT Trung ương nhận thấy:
Ban Thường vụ Đảng ủy Saigon Co.op đã thiếu trách nhiệm, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc; buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát và nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư, huy động vốn, tăng vốn điều lệ, tổ chức Đại hội thường niên. Đồng chí Diệp Dũng đã vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi phạm Quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Những vi phạm nêu trên đã gây hậu quả rất nghiêm trọng, thiệt hại lớn tiền và tài sản của tập thể, gây dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng và Saigon Co.op.
Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm; căn cứ quy định của Đảng, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật Cảnh cáo Ban Thường vụ Đảng ủy Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2015 – 2020 và đồng chí Nguyễn Thành Nhân, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, nguyên Ủy viên Hội đồng quản trị, nguyên Tổng Giám đốc Saigon Co.op.
UBKT Trung ương đề nghị Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật đồng chí Diệp Dũng, nguyên Thành ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co.op.
Xem xét trách nhiệm của một số đồng chí có liên quan, UBKT Trung ương quyết định:
– Thay đổi hình thức kỷ luật Khiển trách bằng hình thức Cảnh cáo đối với các đồng chí: Nguyễn Vũ Toàn, nguyên Đảng ủy viên, nguyên Ủy viên Hội đồng quản trị, nguyên Phó Tổng Giám đốc Saigon Co.op; Nguyễn Thanh Hùng, Ủy viên Hội đồng quản trị Saigon Co.op, Phó Bí thư Chi bộ, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Củ Chi; Hồ Ngọc Hoàng Dũng, Thành viên Ban Kiểm soát Saigon Co.op, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Phường 6, Quận 4.
– Kỷ luật Khiển trách đồng chí Hàng Thanh Dân, Ủy viên Hội đồng quản trị Saigon Co.op, Bí thư Chi bộ, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Thương mại Quận 3.
– Các đồng chí: Quách Cường, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Ủy viên Hội đồng quản trị Saigon Co.op; Hồ Mỹ Hòa, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Hội đồng quản trị, Giám đốc Phòng Tài chính Saigon Co.op, tuy có vi phạm, khuyết điểm đến mức phải xem xét thi hành kỷ luật, song các đồng chí đã thẳng thắn đấu tranh với những việc làm sai trái của đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị; chủ động, kịp thời báo cáo với các cơ quan chức năng; trong quá trình kiểm tra, kiểm điểm đã cầu thị, nghiêm túc, nhận vi phạm, khuyết điểm, tự nhận hình thức kỷ luật. UBKT Trung ương quyết định không thi hành kỷ luật các đồng chí Quách Cường và Hồ Mỹ Hòa.
UBKT Trung ương đề nghị Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo, xem xét, xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên có liên quan đến các vi phạm nêu trên.
II- Thực hiện kết luận của UBKT Trung ương tại Kỳ họp thứ 12 về vi phạm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận và một số tổ chức, cá nhân; căn cứ các quy định của Đảng, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật:
– Khai trừ ra khỏi Đảng các đồng chí: Lê Nguyễn Thanh Danh, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Ngô Hiếu Toàn, Đảng ủy viên, Phó Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Bình Thuận.
– Cảnh cáo các đồng chí: Lê Tuấn Phong, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận và Nguyễn Trần Nam, nguyên Ủy viên Ban cán sự đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng.
– Khiển trách các đồng chí: Đặng Công Huẩn, Ủy viên Ban cán sự đảng, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ và Vũ Văn Họa, Ủy viên Ban cán sự đảng, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước vì đã vi phạm trong chỉ đạo thanh tra, giải quyết tố cáo và kiểm toán tại tỉnh Bình Thuận.
UBKT Trung ương đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận các nhiệm kỳ 2010-2015, 2015-2020; Ban cán sự đảng UBND tỉnh Bình Thuận các nhiệm kỳ 2011-2016, 2016-2021 và các đồng chí: Huỳnh Văn Tí, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy; Lê Tiến Phương, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Ngọc Hai, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh; Lương Văn Hải, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Phó Bí thư Ban cán sự đảng, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; Hồ Lâm, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận.
III- Xét đề nghị của Tỉnh ủy Khánh Hòa, căn cứ quy định của Đảng, UBKT Trung ương đề nghị Ban Bí thư thi hành kỷ luật các đồng chí: Võ Tấn Thái, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Lê Văn Dẽ, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Khánh Hòa, do đã vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc tham mưu cho UBND tỉnh ban hành một số quyết định có nội dung trái pháp luật tại Dự án sinh thái tâm linh Cửu Long Sơn Tự thuộc khu vực núi Chín Khúc và dự án Khu biệt thự và du lịch sinh thái Vĩnh Trung, tỉnh Khánh Hòa.
IV- Xét đề nghị của Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, căn cứ quy định của Đảng, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật:
– Khiển trách đồng chí Trung tướng Hồ Thanh Đình, nguyên Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, Bộ Công an, do đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát trong việc đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân Phan Sào Nam vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của Bộ Công an.
– Cảnh cáo đồng chí Thiếu tướng Tống Mạnh Chinh, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Giám đốc Bệnh viện 30-4, Bộ Công an do đã vi phạm quy định trong đấu thầu, mua sắm trang thiết bị y tế và thanh quyết toán bảo hiểm y tế.
V- Thực hiện kết luận của UBKT Trung ương tại Kỳ họp thứ 13 về việc xem xét, xử lý trách nhiệm của một số cá nhân có vi phạm qua giải quyết tố cáo, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật khiển trách các đồng chí: Đinh Chung Phụng, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Ủy viên Ban cán sự đảng, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; Nguyễn Cao Sơn, Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban cán sự đảng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, nguyên Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình do vi phạm các quy định trong quản lý đầu tư, xây dựng.
VI- Xem xét kết quả giám sát, UBKT Trung ương nhận thấy:
Ban Thường vụ Đảng ủy Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp Vạn Xuân, Bộ Quốc phòng nhiệm kỳ 2015-2020 đã có một số vi phạm, khuyết điểm trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện Quy chế làm việc; trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng vốn doanh nghiệp và việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
UBKT Trung ương đề nghị Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ đạo, kiểm tra một số tổ chức đảng trực thuộc có liên quan đến những vi phạm, khuyết điểm nêu trên. Yêu cầu Ban Thường vụ Đảng ủy Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp Vạn Xuân kiểm điểm, xem xét trách nhiệm của các tập thể và cá nhân; kịp thời khắc phục, sửa chữa những vi phạm, khuyết điểm đã được chỉ ra; báo cáo kết quả về UBKT Trung ương.
VII- Cũng tại kỳ họp này, UBKT Trung ương đã xem xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng và quyết định một số nội dung quan trọng khác./.
ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG
- Trang 5 báo Nhân Dân ngày 21/4/2022
Thành phố Hồ Chí Minh kỷ luật nhiều đảng viên sai phạm
Chiều 20/4, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh cho biết đã xem xét, đề nghị thi hành kỷ luật một số đảng viên theo thẩm quyền.
Theo đó, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy xem xét, (đề nghị) thi hành kỷ luật đối với 9 đảng viên vi phạm pháp luật trong vụ án “Tham ô tài sản” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ cơ quan nước ngoài.
Ủy ban Kiểm tra Thành ủy nhận thấy 9 đảng viên đã vi phạm quy định pháp luật hình sự, thực hiện hành vi “Tham ô tài sản” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, gây thiệt hại tài sản của nhà nước với số tiền rất lớn.
Căn cứ các quy định của Đảng về thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy xem xét, quyết định thi hành kỷ luật đối với 8 đảng viên thuộc thẩm quyền; trong đó khai trừ đối với 7 đảng viên; thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với một đảng viên.
Ủy ban Kiểm tra Thành ủy cũng đề nghị Ban Thường vụ Thành ủy quyết định kỷ luật theo thẩm quyền đối với đồng chí Huỳnh Thị Tuyết Nhung, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ cơ quan nước ngoài.
Ngoài ra, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy cũng thi hành kỷ luật hình thức khiển trách đối với đồng chí Trần Văn Lâm, đảng viên Chi bộ Khu phố 5, Đảng ủy Phường 7, Quận 8; nguyên Phó Bí thư Chi bộ 10, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp nghề – Giáo dục thường xuyên Hồng Ngự thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Tháp.
Kỷ luật hình thức khai trừ đối với đồng chí Đỗ Văn Sang, đảng viên Chi bộ 11F, Đảng bộ Phường 7, Quận Gò Vấp; nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Binh đoàn 15, Bộ Quốc phòng.
LINH BẢO
- Trang 8 báo Nhân Dân ngày 19/4/2022
Khởi tố bị can, bắt tạm giam một số nguyên cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển
Thiếu tướng Phạm Kim Hậu, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng; Thiếu tướng Bùi Trung Dũng, nguyên Phó Tư lệnh; Thiếu tướng Doãn Bảo Quyết, nguyên Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị đã bị khởi tố bị can, bắt tạm giam vì liên quan vụ án “Tham ô tài sản”.
Chiều 18/4, thông tin từ cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng cho biết, chấp hành chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và chỉ đạo của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về việc xử lý các sai phạm liên quan cán bộ Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển; ngày 13/4/2022 vừa qua, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án “Tham ô tài sản” liên quan sai phạm tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Cơ quan Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng đã quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với:
Thiếu tướng Phạm Kim Hậu, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng; Thiếu tướng Bùi Trung Dũng, nguyên Phó Tư lệnh; Thiếu tướng Doãn Bảo Quyết, nguyên Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị; Đại tá Nguyễn Văn Hưng, nguyên Phó Tư lệnh; Thượng tá Bùi Văn Hòe, Phó Trưởng phòng Tài chính về tội “Tham ô tài sản” quy định tại Khoản 4, Điều 353 Bộ luật Hình sự với vai trò đồng phạm với bị can Nguyễn Văn Sơn, Trung tướng, nguyên Tư lệnh và bị can Hoàng Văn Đồng, Trung tướng, nguyên Chính ủy.
Cùng ngày 13/4/2022, Cơ quan Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng đã thay đổi biện pháp ngăn chặn, bắt tạm giam đối với Nguyễn Văn Sơn và Hoàng Văn Đồng (trước đó, Nguyễn Văn Sơn và Hoàng Văn Đồng bị Cơ quan Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng khởi tố bị can, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú về tội “Tham ô tài sản” quy định tại Khoản 4, Điều 353 Bộ luật Hình sự).
Các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra đều được Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương phê chuẩn.
Trước khi bị Cơ quan Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng khởi tố, tại phiên họp ngày 1/10/2021, Ban Bí thư đã kết luận và quyết định: Thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với Trung tướng Nguyễn Văn Sơn, Trung tướng Hoàng Văn Đồng, Thiếu tướng Phạm Kim Hậu, Thiếu tướng Bùi Trung Dũng, Thiếu tướng Doãn Bảo Quyết.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã quyết định cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với Đại tá Nguyễn Văn Hưng.
Ngày 22/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cách chức Tư lệnh Cảnh sát biển đối với Trung tướng Nguyễn Văn Sơn; cách chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Cảnh sát biển đối với Thiếu tướng Phạm Kim Hậu; cách chức Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị Cảnh sát biển đối với Thiếu tướng Doãn Bảo Quyết; cách chức Phó Tư lệnh Cảnh sát biển đối với Đại tá Nguyễn Văn Hưng; xóa tư cách nguyên Chính ủy Cảnh sát biển đối với Trung tướng Hoàng Văn Đồng; xóa tư cách nguyên Phó Tư lệnh Cảnh sát biển đối với Thiếu tướng Bùi Trung Dũng.
Đây là vụ án rất nghiêm trọng, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ đạo các cơ quan tư pháp quân đội, tiếp tục mở rộng điều tra làm rõ sai phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan, bảo đảm nghiêm minh, đúng pháp luật, không có vùng cấm.
TRẦN QUYẾT