Pham Ton’s Blog

Tháng Năm 18, 2024

Đọc Du ký Việt Nam để thấy rõ hơn Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:56 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười sáu, kỳ 2 tháng 5 năm 2024.

Đọc Du ký Việt Nam để thấy rõ hơn Phạm Quỳnh

(Trang 16 báo Tuổi Trẻ ngày 18/5/2024)

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn – người bỏ nhiều công biên soạn bộ sách Du ký Việt Nam trên Nam Phong tạp chí gần 2.000 trang, nói chủ bút tờ Nam Phong Phạm Quỳnh là một người yêu nước và đầy tinh thần dân tộc.Pham Quynh du ky 1

Bộ sách tư liệu đồ sộ này vừa được NXB Trẻ tái bản có bổ sung trong bối cảnh mà các tư liệu văn chương, báo chí giai đoạn đầu thế kỷ 20 có thể tiếp cận dễ dàng cả ở các thư viện trong nước và quốc tế nhưng vẫn mang ý nghĩa lớn lao khi nó ghi dấu sự trân trọng với tấm lòng của ông chủ bút Nam Phong tạp chí với văn hóa dân tộc Phạm Quỳnh.

Buổi tọa đàm ra mắt sách do Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức chứng kiến nhiều tình cảm của các nhà nghiên cứu dành cho bộ sách tư liệu quý ở khía cạnh nó đã trực tiếp, gián tiếp vinh danh nhà văn hóa Phạm Quỳnh.

Nuôi tình yêu giang sơn cẩm tú

Theo các nhà nghiên cứu văn học và văn học sử dự tọa đàm, những đóng góp của Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh là chủ nhiệm kiêm chủ bút trong việc xây dựng một nền quốc văn mới, phổ biến học thuật, giới thiệu những tư tưởng triết học, khoa học, văn chương, lịch sử… của cả Á và Âu những năm đầu của thế kỷ 20 là điều đã được ghi nhận.

Pham Quynh du ky 2Tồn tại 17 năm, từ năm 1917 đến 1934, Nam Phong tạp chí đã thực sự để lại một dấu ấn tinh thần trong tâm trí của nhiều độc giả.

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn chia sẻ với uy tín của một tờ báo chuyên về học thuật, uy tín của một học giả như Phạm Quỳnh, Nam Phong tạp chí đã nhận được sự cộng tác của nhiều cây bút từ Bắc vào Nam.

Mục Du ký trên tạp chí cũng không là một ngoại lệ. Những tên tuổi viết cho mục này như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Đông Hồ, Mộng Tuyết… sau này đều được lịch sử văn học lưu danh. 

Và chính người khởi xướng ra mục này là Phạm Quỳnh đã có những tác phẩm du ký xuất sắc.

Những bài du ký trên Nam Phong tạp chí không chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn mang đến những thông tin thú vị về địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán cũng như những tâm tư, tình cảm, ước vọng của con người.

Nhờ đó, bạn đọc ngày nay phần nào hình dung ra chân dung xã hội của một thời đại cách nay đã gần trăm năm, và trước nhất là được chu du khắp những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất của đất nước chúng ta.

Chu du từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến đảo Phú Quốc, từ núi Tiên Du đến cảnh Hà Tiên và Ngũ Hành Sơn, từ Cổ Loa, Hạ Long đến Huế thơ mộng, Nam Kỳ sôi nổi như một cô gái tân kỳ…

Giống như ông Nguyễn Tử Thức – chủ bút Nam Trung nhựt báo ở Sài Gòn – đã phát biểu khi ra Bắc thăm Hà Nội: “Thiệt chúng tôi không ngờ giang sơn nước Nam ta cẩm tú như vầy”, đọc bộ sách, bạn đọc cũng phải thốt lên như ông: “Không ngờ giang sơn nước Nam ta cẩm tú như vầy”.

Tấm lòng của Phạm Quỳnh

Nhưng hơn cả chuyện tả cảnh kể tình, Du ký Việt Nam trên Nam Phong tạp chí còn nuôi dưỡng cho bạn đọc niềm tự hào dân tộc và tình yêu chân thành đất nước mình với bao vẻ đẹp non sông.

Pham Quynh du ky 3

Đây cũng chính là ý đồ của chủ bút Phạm Quỳnh khi khai sinh mục du ký này trên Nam Phong tạp chí.

Theo tác giả Nguyễn Hữu Sơn, trên Nam Phong số 150 ra tháng 5-1930, Phạm Quỳnh đã rút ruột tâm sự qua mấy dòng đề tựa đầy ý nghĩa:

“Muốn cho con trẻ yêu mến nước nhà thì phải cho con trẻ thông thuộc nước nhà, hiểu biết cả lịch sử, địa lý, lễ giáo, phong tục; nhỏ từ cách sinh hoạt trong dân gian; lớn đến các kỷ cương về đạo lý, ngõ hầu mới có lòng thiết tha đến nơi quê hương Tổ quốc của mình.

Lại trước khi biết đến cái tổ quốc lớn là toàn thể quốc gia, phải biết cái tổ quốc nhỏ là nơi địa phương mình sinh trưởng đã”.

Phạm Quỳnh đã nuôi mục Du ký trong gần 20 năm tồn tại của tờ Nam Phong tạp chí, để nuôi dưỡng cái tình yêu với non sông gấm vóc, với văn hóa giàu có dân tộc, niềm tự hào về các tiền nhân trong con trẻ và trong mỗi người Việt.

Tất nhiên, trong khung cảnh của một xã hội thuộc địa, nửa thực dân nửa phong kiến, bạn đọc sẽ bắt gặp đây đó trong những bài du ký vẫn có những dòng chữ ca ngợi Nam triều, ca ngợi nước Pháp và người Pháp như là những người có công đi bảo hộ, khai phá văn minh… Điều này là khó tránh khỏi.

Nhưng nó chỉ là những vụn vặt bên cạnh những dòng chữ tha thiết về tình yêu giữa những người Việt cùng chung sống trên mảnh đất của tổ tiên, cùng nói chung tiếng Việt ân tình, cùng đắm mình trong lề thói, văn hóa của cha ông mình…

Pham Quynh du ky 4

Như Phạm Quỳnh trong Một tháng ở Nam Kỳ đã viết: “Huống chi tuy khác xứ mà cũng đất nước nhà, tuy người lạ mà cùng là anh em, thời càng quen biết lại càng đậm đà cái tình máu mủ, càng đằm thắm cái nghĩa quê hương”.

Ông Nguyễn Hữu Sơn khẳng định ngoài những hạn chế lịch sử không tránh khỏi, phải ghi nhận các trang du ký trên Nam Phong tạp chí đã tiếp nối được tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc từ cội nguồn văn học ông cha.

Trong một chừng mực nhất định, nhiều trí thức cựu học và tân học đã biết lợi dụng diễn đàn công khai để khơi gợi và giáo dục tình cảm yêu nước, nhắc nhở lại truyền thống đấu tranh anh dũng ngàn năm thông qua việc du ngoạn, thăm viếng, tưởng niệm các danh nhân đất nước (An Dương Vương, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung…) và các di tích lịch sử (Cổ Loa, đền Lý Bát Đế, hồ Hoàn Kiếm, Hoa Lư, lăng điện xứ Huế, danh thắng Banà, Ngũ Hành Sơn, Sài Gòn, Tây Đô, Phú Quốc, Thạch Động, Hà Tiên)…

Với Phạm Quỳnh, ông Sơn nói học giả có nhiều bài viết về giáo dục của Việt Nam, trong đó hết lòng tôn vinh truyền thống ngàn năm của nước Việt.

Có những đoạn ông còn thẳng thừng nêu ý kiến người Pháp đến đây phải biết rằng nước Nam không phải là một tờ giấy trắng, họ phải có ứng xử văn hóa với truyền thống văn hóa người Việt chứ không thể áp đặt.

Với người Việt, ông nói dân ta trước hết phải yêu tiếng Việt, học tiếng Việt thật giỏi trước khi học tiếng Pháp, phải giữ tiếng Việt cho thật trong sáng.

Thiên Điểu

Tháng Tư 30, 2024

Chuyện kể của một chiến sĩ xe tăng

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:56 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười sáu, kỳ 1 tháng 5 năm 2024.

CHUYỆN KỂ CỦA MỘT CHIẾN SĨ XE TĂNG

Dã Thảo

Dã Thảo tôi có một ông em kết nghĩa trẻ hơn mười tuổi. Chú vốn con nhà nông dân Phú Thọ, được tuyển đi học lái cần cẩu to ở nước ngoài, di chuyển bằng xích sắt như xe tăng. Từ đấy, chú ôm mộng làm lính xe tăng. Nhưng, học xong, chú được tuyển về cảng Hà Nội, tất nhiên


là để … lái cần cẩu to.

Đang hồi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, chú tình nguyện xin nhập ngũ. Được chấp nhận, tưởng là sắp bắt đầu cuộc đời lính xe tăng rồi, nhưng ai ngờ, chỉ vì cao, to lại đẹp trai, chú bị… chuyển về đơn vị chuyên phục vụ lễ nghi đón đưa khách quốc tế và các ngày lễ trọng, ăn trắng, mặc trơn, chuyên sống ở Hà Nội. Thời chiến, nhiều người mong mà chẳng được, nhưng chú thì cuộc họp nào cũng xin “nhận khuyết điểm là không yên tâm công tác”, chỉ có một nguyện vọng là được ra mặt trận làm chiến sĩ xe tăng, trực tiếp giết giặc. Cứ thế mãi rồi đơn vị lễ nghi cũng đành chiều. Và chú thành chiến sĩ xe tăng ngay đợt tuyển đầu. Rồi ra trận. Xe tăng của chú là chiếc thứ hai tiến vào dinh Độc Lập lúc hơn 11 giờ trưa ngày 30-4-1975. Hết chiến tranh, chú về quê, cống hiến trọn đời cho các việc ích nước lợi dân, không kể lớn nhỏ, với cấp hàm đại úy.

Tết năm nào tôi cũng viết thiếp chúc Tết gia đình chú. Nhưng chú thì không bao giờ viết. Thay vào đó, là một cuộc gọi điện thoại đường dài Phú Thọ – Sài Gòn, nói thật là lâu. Lá thiếp không thể chứa nổi tình cảm của chú với anh em cũ… Tết Tân Mão 2011, theo lệ cũ, tôi gởi thiếp. Sáng mồng một thì về bên ngoại, họp mặt gia đình, ăn uống đến hơn hai giờ trưa mới về. Vừa mở cửa, đã nghe có tiếng chuông điện thoại. Chú ấy gọi. Và cho biết đây là lần gọi thứ bốn từ sáng đến giờ. Sau lúc hàn huyên thăm hỏi gia đình, chú nói là có chuyện rất vui chỉ chờ dịp này kể cho tôi nghe. Chuyện chú kể đai khái thế này…

Trước Tết, đi ăn cưới, chú ngồi cùng bàn với nhiều vị chức sắc và lão thành cách mạng, có lẫn vài thanh niên nay làm lãnh đạo địa phương. Đến lúc gần tàn tiệc, uống trà nói chuyện tào lao thì chú bỗng nổi hứng, lên tiếng hỏi “Các vị có biết ông Phạm Quỳnh là ai không?” Cả bàn già trẻ dè dặt nhìn ông đại tá một lát rồi mới có một vị lên tiếng: “Phạm Quỳnh thì ai chẳng biết…”. Lại hỏi “Thế ông ấy là người thế nào?…” Đáp ngay: “Phạm Quỳnh là tay sai thực dân Pháp”. Lại hỏi: “Còn gì nữa?”. Lại đáp ngay: “Phạm Quỳnh bán nước…” nhưng có hơi do dự .

Lúc ấy vị đại tá mới nói: “Thế ông có biết Phạm Quỳnh là thủ khoa đầu tiên của Trường Bưởi năm 15 tuổi, rồi đi làm ngay ở Trường Viễn Đông Bác Cổ, chuyên nghiên cứu về văn hóa văn học cổ nước nhà. 24 tuổi là chủ bút tạp chí Nam Phong lớn nhất nước ta. Năm 1922, Phạm Quỳnh sang Pháp dự Đấu xảo thuộc địa, tranh thủ gặp Ng


uyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường… bàn việc nước. Chính Nguyễn Ái Quốc đã “đích thân” chỉ đạo bạn cũ từ hồi đi tàu thủy làm một “bữa cơm Bắc thết khách Bắc” là Phạm Quỳnh. Chính vì thân thiết và hiểu nhau như thế cho nên năm 1945, Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ đã nói với Thứ trưởng Bộ Nội Vụ Hoàng Hữu Nam “vô Huế gặp cụ Phạm, trao thư tôi mời cụ”. Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị bắt, chính Cụ Hồ đã nói “Bất tất nhiên” (không nhất thiết phải làm như thế). Còn khi nghe Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban Cách mạng Thừa Thiên – Huế báo là: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi” thì Người nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!”. Và đến năm 1946, trước phái đoàn ta dự Hội nghị Fontainebleau (Pháp), Bác đã nói: “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì …” Ông Phạm Văn Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…”.

Cả bàn tiệc ngơ ngác, nhất là vị cán bộ nọ. Vị đại úy nói tiếp:

– Người ta như thế, mà ông chỉ biết có hai câu tay sai với bán nước thôi sao… Vậy xin hỏi ông một câu cuối: “Ông có thuộc bài Như có Bác trong ngày đại thắng không?” Vị cán bộ đỏ mặt: “Ông say rồi mới hỏi tôi như thế, cả nước ai cũng thuộc, đến đứa trẻ con cũng thuộc, ai mà mỗi năm chẳng hát chục lần”.

– Vậy ông có biết tác giả Phạm Tuyên chính là con trai cụ Phạm Quỳnh không?

– Ủa, thật vậy sao?… Điều này thì tôi cũng không biết…

– Vậy thì hôm nào rỗi rãi, ông lại tôi chơi, ta nói chuyện, xem sách cho vui. Sách của ông ấy thì nhiều lắm. Ngay ở nước ta, từ năm 2001 đến nay đã in rất nhiều, có quyển như Thượng Chi văn tập dày hơn một nghìn trang, trong ba tập sách Du ký Việt Nam mấy nghìn trang, tính ra ông ấy có hơn một quyển, chẳng thế mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi ông là “người khổng lồ”. Hồi sang Pháp năm 1922, ông đã tự tìm cách lên được diễn đàn Viện Hàn Lâm Pháp để bênh vực dân mình và được cả viện vỗ tay, là điều chưa từng xảy ra ở đấy… Rỗi đến tôi chơi nhé, chứ biết ít như ông mà cứ nói nhiều thì e người ta cười cho đấy!

Đại loại chuyện vui mà ông em kết nghĩa người Phú Thọ muốn làm quà cho tôi ngày mồng một Tết Tân Mão là như vậy. Thật quả là tôi được “lì xì” quá mức dám mơ tưởng.

D. T.

—o0o—

Phạm Tôn Tôn Thất Thành viết thêm ngày 30/4/2024 tại thành phố Hồ Chí Minh

Chú em kết nghĩa đi B. Tôi chỉ biết tin tức ít ỏi qua thư của cô vợ bé nhỏ đã thành thợ học việc ở nhà máy dệt Nam Định. Một lần đi công tác, tôi có ghé xí nghiệp thăm cô. Sau này, có tin tức gì mới về chú ở chiến trường phương Nam cô đều nhanh chóng viết thư cho tôi. Nhờ đó cô có địa chỉ của tôi sau 1975 khi mới vào Sài Gòn giải phóng. Cho nên có chuyện vui là một anh cùng cơ quan sau này vẫn ở địa chỉ ấy, một hôm nhận được lá thư gửi cho tôi về địa chỉ ấy. Chỗ ghi tên người gửi thì viết rất bay bướm chỉ ba chữ Em, Phương xa. Anh ngạc nhiên: hóa ra Tôn Thất Thành cũng có bồ, rồi nhờ người đem đến 82 Lý Chính Thắng cho tôi.

Nhìn chữ viết ngoài phong bì, tôi nhận ra ngay chữ viết của Đào Văn Thùy chú em kết nghĩa. Từ đấy, anh em tôi thường liên lạc với nhau. Thùy gửi cả ảnh con gái con trai, cháu ngoại và tất nhiên cô vợ thân yêu. Em gửi ảnh em ngày nay. Vừa là võ sư Bình Định Gia có hàng ngàn môn sinh, vừa là kiến trúc sư có uy tín, thiết kết độc đáo vì bản thiết kế có tính đến yếu tố phong thủy. Chú hẹn sẽ sớm vào Nam thăm anh chị, khi nào có duyên. Rồi Covid-19 xảy ra, chú còn liên lạc qua điện thoại. Sau đó thì bặt hẳn. Đến nay, không còn liên lạc gì, chỉ còn lại một số hình ảnh lưu lại trong điện thoại. Tôi vẫn chờ. Vợ tôi không chờ được, đã lên trời từ ngày 10 tháng 7 năm Giáp Dần 2022. Tôi vẫn nhắn tin cho chú đều đặn. Và vẫn chờ tin từ chú em, hoặc vợ con cháu chú. Với tôi, người như chú không thể ra đi không dấu vết…

PT.TTT

Tháng Tư 23, 2024

Tôi đưa thầy tôi về chùa Vạn Phước – Phạm Thị Hảo

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:27 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười sáu, kỳ 1 tháng 5 năm 2024.

TÔI ĐƯA THẦY TÔI VỀ CHÙA VẠN PHƯỚC

Phạm Thị Hảo

Lời dẫn của Phạm Tôn: Khi các bạn, đọc những dòng xúc động sau đây thì tác giả Phạm Thị Hảo đã ra đi về cõi vĩnh hằng ở tuổi 94. Bà sinh năm 1920 tại Hà Nội và vừa mất hồi 8 giờ ngày 28/4/2914 tại Hoa Kỳ nơi bà định cư từ 1975.

Cách đây vài năm, con trai, con gái đến thăm bà thì bà tiếp đón lịch sự, có hơi “khách khí”, rồi “xin phép hỏi quý danh”. Nhưng khi con gái hỏi chuyện thì bà đọc cho nghe hàng trăm câu Kiều, rành rẽ, ngâm nga say sưa. Đúng là con gái người say Kiều, sùng bái Kiều, suốt đời vận Kiều vào thân mình: học giả Phạm Quỳnh.

Năm 1956, chính bà và em trai út là Phạm Tuân đã đi cải táng thân phụ, nhân gia đình Ngô Đình Diệm hồi ấy là tổng thống Việt Nam Cộng Hòa tổ chức đi tìm hài cốt cha con Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân cùng chôn một chỗ.

Đáng tiếc là lá thư bà hứa sẽ viết tỉ mỉ cho chị gái là bà Phạm Thị Giá thì lại chưa kịp viết, vì “khi định viết thì lại quá bận, khi có thời giờ thì tâm lại bất an” như bà viết thư than với chị. Vì thế chúng tôi chỉ còn chút ít dòng này của bà gửi đến bạn đọc.

—o0o—

  1. 1. THƯ GỬI CHỊ

…Đọc thư chị, em cảm động và thương chị lắm. Chị em ta sống gần gũi nhau suốt từ ngày em cưới (1942) đến lúc đất nước chia đôi (1954) vui buồn đều có nhau. Sau khi Thầy bị nạn, rồi lúc Me ở Hàng Da với chị, mất ở nhà chị…đều có em bên chị. Lúc em sinh hai cháu gái Mai, Ầm nay đã bốn mươi tuổi, đều có chị đưa đi nhà hộ sinh và nắm tay em khi đau đẻ…làm sao em quên được…Lẽ dĩ nhiên em sẽ nói nhiều đến những ngày cuối năm 1956 em đi lãnh hài cốt Thầy và đưa về chùa Vạn Phước…Em thật có lỗi với chị vì chưa viết trả lời những câu hỏi và kể chuyện công việc thiêng liêng này cho chị, dù chị đã hỏi đến mấy lần. Em không quên đâu, em sẽ chờ lúc tĩnh tâm để viết. Trước kia em đi làm bận rộn, nay về hưu nhàn hơn thì tâm lại chưa tĩnh…Ngày mất thì khi em đi nhận hài cốt, chỉ thấy một nhân chứng nói là “đêm đó trăng lưỡi liềm”

(Trích bản viết tay Thư cụ Phạm Thị Hảo từ Washinton DC, Mỹ gửi cho chị ở Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 24-9-1990))

  1. 2. THƯ GỬI EM TRAI

Nhận được thư em chị mừng lắm, đọc đi đọc lại những dòng chữ thân yêu với những tin tức vui của gia đình ta.

Anh chị em ta “năm con voi và tám nàng tiên” yêu nhau thật thắm thiết, thật là kỳ diệu! Không phải gia đình nào cũng được diễm phúc đó. Sau bao nhiêu năm xa cách, bao biến động, tình ruột thịt lại càng thắm thiết.

…Nay có em sang “nghìn năm một thuở” cũng như năm ngoái khi K. đến, chị cũng không làm sao dứt ra mà đi được. Rất buồn tủi, song các em cũng hiểu chị và yêu thương chị

…Chị rất tiếc không có mặt ở Paris lúc này để ôm em vào lòng và kể cho em cùng các em Ngoạn, Hoàn, Lệ, Viên những chi tiết và những phút đau lòng, lo âu, cảm động khi đi nhận di hài Thầy yêu quí của chúng ta. Ngày giáp Tết, khi ánh bình minh vừa rạng ló, con thuyền đưa cốt Thầy cặp bến chùa Vạn Phước, và chị cùng Miềng (tức Phạm Tuân – PT ghi chú), cô (me chị Bích) dự lễ an táng bên cạnh sư cụ cùng một vài thân hữu ở Huế. Chị không sao quên nổi cái đêm kinh hoảng (27 Tết thì phải) sau khi tìm bới hai ngày dài, rồi nhờ các vị sư cúng các vong tại chỗ, đến mãi tối mịt mới tìm được di hài ba vị (Thầy, cụ Khôi và cậu Huân). Người ta (họ Ngô) đang làm to, mang hai cha con họ Ngô quàn ở một cái rạp thật lớn trang hoàng theo nghi lễ công giáo, lính gác chung quanh, để chờ sáng hôm sau tám giờ tổ chức quốc tang theo lịch trình đã định. Còn chị em mình (chị và Miềng) cùng cô lẽo đẽo đưa di hài Thầy lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ. Định ở đó suốt đêm, chờ sáng hôm sau nhà Ngô đưa đám (quốc táng thật to) đi rồi, mình dùng đúng con đường đó (đã được “quét sạch” ) để đưa cha mình về chùa. Song đêm trên đỉnh đồi lãnh lẽo, lủi thủi có ba bà con, văng vẳng nghe tiếng cầu kinh của các đệ tử Thiên Chúa bề tôi nhà Ngô ở dưới chân đồi, chỗ rạp quàn hài cốt nhà Ngô, vừa tủi thân vừa sợ. Miềng lúc đó còn nhỏ (20 tuổi – PT ghi chú) lo sợ, cứ bảo “Thôi, đi về đi!”. Những nhà chức trách nơi đó lại khuyên nên chờ đến sáng, sau đám nhà Ngô hãy đi, kẻo vùng này có tiếng là dữ (cọp beo, “hắc thú”, và …). Sau cùng, chị nhất quyết xin họ cho một cái đò để chở Thầy về ngay đêm đó. Họ khuyên không được, cũng tử tế cho hai thuyền có lính và khí giới đi kèm đò mình. Thế là chiếc tiểu – quan tài nhỏ, qua sông. Suốt đêm đến sáng thì tới bến Vạn Phước. Tờ mờ sáng, lòng đang buồn tủi đau khổ thương cho cha chịu phận hẩm hiu, lại hãnh diện cho mình được thay mười một người con của Thầy Me, đưa Thầy về nơi an nghỉ ngàn năm…Thì trên bến đã thấy sư cụ cùng mấy sư bác, các tiểu chờ sẵn. Em ơi, chị Hảo lúc bấy giờ mừng quá “đi đến nơi về đến chốn” rồi, trông mấy vị tu hành như thấy mấy vị cứu tinh, cảm động nước mắt dào ra không biết nói gì… Chôn cất Thầy xong, chị và Miềng về Sài Gòn, vừa vặn sửa soạn Tết, cúng giao thừa.

Mừng là mọi chuyện êm đẹp, nhưng nửa tháng sau sư cụ lại nói với cô là Thầy về báo mộng, mộ ướt lắm. (Chỗ đất này tốt nhất, đáng ra là dành cho sư cụ, cụ nhường cho Thầy). Thầy nằm trong vũng nước. Cô lại gửi thư về Sài Gòn nói tuỳ chị, cô không dám định đoạt đào lại mộ, chị nói cô cứ làm. Quả nhiên mộ đầy nước…Vì thế mới thỉnh Thầy ra ngoài cửa chùa, chỗ này cũng đẹp đẽ, sạch sẽ như em chắc đã thấy

(Trích bản viết tay Thư cụ Phạm Thị Hảo từ Washington DC, Mỹ gửi cho em trai ở Hà Nội (ngày 7-3-1990))

Tháng Tư 10, 2024

Phạm Quỳnh có quan hệ thế nào với Hoàng Đạo Thúy

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:48 sáng

Blog PhamTon nắm thứ mười sáu, kỳ 2 tháng 4 năm 2024.

PHẠM QUỲNH QUAN HỆ THẾ NÀO VỚI HOÀNG ĐẠO THÚY?

Dã Thảo

Bạn nào đọc đều đặn blog chúng tôi đến nay, chắc sẽ đặt câu hỏi như trên. Vì thấy trong các bài viết quan trọng về Phạm Quỳnh, nhất là về đời tư, gia cảnh từ thuở ấu thơ đến thời thanh niên, rồi sau này làm báo, làm quan, đều có nhắc đến, hoặc dẫn ra những ý kiến của nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy. Vậy thật ra quan hệ giữa hai người là thế nào, mà có lần trong một bài, Phạm Tôn đã viết “Hoàng Đạo Thúy là bạn thân, lại là người trong họ”…?

Trong một bài trước, chúng tôi đã nói rõ Phạm Quỳnh quan hệ thế nào với Dưỡng Am Phạm Hội rồi. Và nay, xin nói ngay là Phạm Quỳnh quan hệ với Hoàng Đạo Thúy chính là qua quan hệ này.

Dưỡng Am Phạm Hội (1791-1854) từng có hai bà vợ, một họ Trần, là vợ cả, vợ kế họ Lưu. Năm 1841, lại cưới bà thiếp tên là Phạm Thị Thục, sinh được bốn con gái, một người tên là Thu Minh. Bà này là mẹ đẻ của bà Cả Mọc, tức Hoàng Thị Uyên, một nhân vật hoạt động xã hội nổi tiếng ở Đông Dương thời Pháp thuộc, sáng lập Hội Tế sinh, giúp đỡ nhân dân lao động nghèo và người già cô đơn. Bà Thu Minh là mẹ già của Hoàng Đạo Thúy, vợ cả ông thân sinh ra Hoàng Đạo Thúy là Hoàng Đạo Thành. Hoàng Đạo Thúy là con bà hai. Chính vì có họ như thế, cho nên những ngày Tết, hoặc giỗ cụ Phạm Hội, Hoàng Đạo Thúy đều đến nhà Phạm Quỳnh ở số 1 phố Hàng Trống, và biết rõ mọi người, mọi việc trong nhà Phạm Quỳnh.

Phạm Quỳnh sinh năm 1893, hơn Hoàng Đạo Thúy bảy tuổi (sinh năm 1900), cùng lứa tuổi, lại đều là con nhà nho mà theo Tây học, cho nên có nhiều chỗ hợp tính nết nhau. Có điều, Hoàng Đạo Thúy tham gia hoạt động xã hội nhiều, tiếp xúc với đông đảo thanh niên, nhất là từ khi lập Hội Hướng đạo, còn Phạm Quỳnh thì trái lại, chỉ vùi đầu vào sách vở, rồi làm báo, chỉ tiếp xúc với giới thượng lưu, trí thức, có học, ít vốn sống thực tế.

Chuyện nhỏ như chuyện nhà, chuyện lớn như chuyện nước, hai ông đều thường bàn bạc với nhau, nhưng tôn trọng ý kiến của nhau, không ai có ý áp đặt ai. Khi Phạm Quỳnh đầy ảo tưởng, định dấn thân vào quan trường, tưởng có thể làm được những việc trước nay mình chỉ mơ ước và luận bàn trên giấy trắng mực đen, trên diễn đàn, thì chính Hoàng Đạo Thúy đã đứng ra ngăn cản, khuyên không nên dấn thân vào một nơi đã mục nát rồi, không vực dậy được đâu. Nhưng Phạm Quỳnh ngây thơ trả lời là cứ để tôi vào làm thử một thời gian xem sao, không làm được gì thì lại ra…Nhưng đúng như Hoàng Đạo Thúy đã báo trước, chẳng những không làm được gì mà còn không sao rút ra được, cứ lún sâu mãi đến làm hại cả thanh danh, mất cả lòng yêu mến của đông đảo nhân dân. Và rút cuộc là chịu một cái chết bi thảm, vô lý, vô nghĩa.

Năm 1991, Hoàng Đạo Thúy đã 91 tuổi, biết mình không còn sống với đời được bao năm nữa, ông đã mời nhạc sĩ Phạm Tuyên đến nhà, nói chuyện cũ, còn viết ra giấy một số tư liệu chỉ mình biết, vẽ cả sơ đồ nhà số 1 phố Hàng Trống, nơi Phạm Quỳnh chào đời và sống suốt thời thơ ấu, thiếu niên, thanh niên, đến 1918 mới dọn về ở 17 Hàng Trống. Nay nhạc sĩ Phạm Tuyên còn giữ được cuốn băng ghi âm cuộc gặp ngày 19/4/1991 tại Hà Nội ấy.

Năm 1992, Viện Văn Học dự định tổ chức hội thảo về Phạm Quỳnh, có mời Hoàng Đạo Thúy cùng Vũ Khiêu, Vương Hồng Sển, v.v… trong đó đặt Hoàng Đạo Thúy viết về Những kỷ niệm về họ Phạm và chủ bút Phạm Quỳnh. Yêu cầu nêu rõ: “Xin cụ 10/12 lấy bài, khoảng 5-7 trang”. Hoàng Đạo Thúy đã viết xong ngày 5/12/1992, vừa đúng bảy trang giấy Viện Văn Học đưa cho.

Nhưng, cái hội thảo gần đến ngày khai cuộc ấy thì có lệnh điện thoại gọi đến bảo “hoãn đến sau Tết”, cho đến nay (1992-2009) vẫn chưa được tiến hành.

Hoàng Đạo Thúy mất tại nhà ở Hà Nội ngày 14/2/1994 (tức mồng 5 tháng Giêng năm Giáp Tuất), sau khi để lại cho con cháu bài thơ Ngủ Quên, toàn văn như sau:

Gió thoảng, trăng trong, buổi mát trời

“Ngủ quên không dậy” việc thường thôi!

Các con chớ giận không từ biệt

Cháu nhớ ông bà ngày tháng trôi

Cái chính chỉ là một lời dặn:

“Giữ lòng trung hậu ở trên đời”

Nhớ thương ghi tạc tình cao cả

Tổ quốc bền lâu với đất trời!

Cuối bài thơ, có ghi rõ “Xuân 1994”. Đáng kinh ngạc và khâm phục hơn là dưới đó còn viết hai dòng ghi rõ tên và năm sinh, năm …mất của mình: “Hoàng Đạo Thúy/1900-1994”.

P.T.

Viết về Thầy tôi

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:41 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười sáu, kỳ 2 tháng 4 năm 2024.

VIẾT VỀ THẦY TÔI

Phạm Thị Thức

 Lời dẫn của Phạm Tôn: Học giả Phạm Quỳnh có 11 con gái, 3 người mất từ lúc chưa đầy tuổi tôi (thôi nôi). Có 5 người từng viết về ông là bà Phạm Thị Giá, con gái trưởng, Phạm Thị Thức con gái thứ hai và các bà Phạm Thị Hảo, Phạm Thị Ngoạn, Phạm Thị Hoàn.

Bài Viết về thầy tôi của bà Phạm Thị Thức viết tại Hà Nội năm 1992, mà ông Trần Gia Phụng đã đôn lên thành Hồi ký của bà Phạm Thị Thức viết tại Paris năm 1992 gây nên một sự hiểu lầm lớn trong dư luận, nhất là ở nước ngoài, chủ yếu là Canada, Mỹ và Pháp. Bài này, bà Phạm Thị Thức viết theo yêu cầu của các em gái ở Pháp, nhân dịp kỉ niệm 100 năm sinh Phạm Quỳnh (1892-1992), nhưng chưa công bố trên báo chí.

Bài này chúng tôi đã đưa lên Blog PhamTon 3/12/2009 nay phải đăng lại. Chỉ vì người Mỹ Sơn Tùng đã lặp lại sai lầm của ông Trần Gia Phụng trong bài viết ghi ngày 4/9/2011 nhan đề Sau 66 năm lịch sử và công lý nào cho vụ án Phạm Quỳnh? (tạp chí Thế Giới Mới).  Chúng tôi đã có bài Vì sao người Mỹ Sơn Tùng lại cứ bám dai nhạc sĩ Phạm Tuyên như thế?, mới đưa lên Blog PhamTon ngày 21/10/2011 mà đến ngày 05/12/2011 đã có tới 36.344 lượt người truy cập! Đủ thấy sự đăng lại bài của bà Phạm Thị Thức là cần thiết đối với các bạn quan tâm.

—o0o—

Thầy tôi, nói đến hai chữ ấy, tự nhiên hai dòng nước mắt của tôi chảy dài xuống má, ruột tôi đau quặn như đứt từng khúc! Nỗi hận này suốt đời tôi không sao có thể quên được…!!

Tôi hồi tưởng lại trong ký ức, những mẩu chuyện nhỏ về Thầy tôi…

Năm tôi 13 tuổi, tối nào tôi cũng lên ngồi bàn làm việc để viết bài cho Thầy tôi, vì Thầy tôi cho rằng chữ tôi đẹp và rõ ràng. Thầy tôi cầm quyển sách vừa dịch vừa đọc như đọc chính tả cho tôi viết. Tôi ngây thơ hỏi: Thầy phải dịch vào giấy nháp rồi để con viết chứ. Thầy thôi chỉ cười. Tôi còn nhớ là viết những học thuyết của Hippocrate gì gì đó mà tôi chẳng hiểu chi cả. Có hôm khuya quá, thấy tôi có vẻ buồn ngủ Thầy tôi bảo: “Con cố lên, chỉ còn vài trang nữa là xong thôi.”, và gọi người nhà mua cho tôi một bát chí mà phù để bồi dưỡng…

Thu ba Pham Thi Thuc_1

Phần đầu bài viết của bà Phạm Thị Thức.

Năm 1928, tôi học École Brieux, cours Supérieur (Trường Brieux lớp nhất – PT chú) và là học sinh giỏi nhất lớp, đồng thời cũng là nhất trường vì ở đó chỉ có đến lớp Supérieur (nhất – PT chú) là hết. Đầu năm 1929, các cô giáo cử tôi lên đọc compliment (lời chúc – PT chú) chúc Tết bà  Đốc là bà Autigeon. Các cô bảo: Em về nhà nhờ Thầy em viết giúp cho mấy câu. Tôi lo quá, nghĩ Thầy tôi bận nhiều công việc như thế, chắc có viết không. Nhưng khi tôi về nói, Thầy tôi vui lòng ngay và bảo: Con đừng lo. Thầy sẽ viết cho vài câu, nhưng con phải học thuộc lòng và đọc cho hay vào. Thế rồi tối nào Thầy tôi cũng bắt học cho rõ thuộc và đọc cho nghe, dặn nhấn mạnh khi nào nên nhìn vào giấy, thỉnh thoảng phải ngẩng đầu lên nhìn xuống dưới chỗ mọi người ngồi. Bài viết tôi học thuộc kỹ quá, cho đến nay quá 64 năm tôi vẫn còn nhớ mãi, những câu sau đây:

…C’est en obéissant à une tradition chère à tous les pays que nous venons aujourd’hui vous apporter le Pham Quynh va Vosincère témoignage de nos jeunes coeurs. L’année 1928 vient à peine de s’écouler, emportant dans sa fuite une année de notre existance que déjà la foule s’empresse de fêter sa jeune soeur, en qui, elle met toute sa confiance et son espoir. Que cette année qui vient marque pour vous et votre chère famille, une ère de prospérité et de joie. Qu’elle soit pour vous douce et bénie. Avec cette confiance facile de notre jeunesse pour cette année qui s’annonce de bon augure, nous formulons des voeux les plus sincères pour qu’elle soit pour vous bonne et heureuse, remplie de bonheur et exempte de tout souci… (Tạm dịch là: Nay, theo tục lệ thân thiết với mọi xứ, hôm nay, chúng con xin chuyển đến Bà tấm lòng thành của những trái tim non trẻ. Năm 1928 vừa qua đi, mang theo một năm trong cuộc sống chúng ta, mà nhân dân đã hối hả mở hội đón năm mới, năm họ đặt tất cả niềm tin và hy vọng. Mong sao năm nay sẽ đánh dấu một kỷ nguyên thịnh vượng và vui vẻ với Bà và gia đình yêu quí của Bà. Mong sao năm mới an lành và đầy ân huệ với Bà. Với lòng tin cậy giản dị của tuổi trẻ chúng con vào năm mới này, năm báo trước điềm lành, chúng con xin chúc những lời chân thành, mong sao năm mới tốt lành và hạnh phúc với Bà, tràn đầy niềm vui và tiêu tan hết mọi ưu phiền …. – PT chú) còn dài nữa, v.v… Bài đọc từ hơn nửa thế kỷ không bao giờ nhớ lại, nay bỗng có dịp nhắc lại, nên có thể nhiều chữ sai và nhiều lỗi chính tả!

Tôi đọc trôi chẩy quá đến nỗi sau đó bà Đốc ôm lấy tôi hôn và bảo “Con đọc hay quá”. Các cô giáo thì tíu tít vui mừng vì học trò của mình được bà Đốc khen…

Năm 1930 tôi đậu Certificat (Tiểu học – PT chú) và thi vào trường École normale des institutrices (Trường nữ sư phạm – PT chú). Thi concours (Tuyển – PT chú) 150 người lấy 30, trong đó chỉ lấy có 3 người vào Normale (Sư phạm – PT chú), còn 27 vào cours complémentaire (Lớp bổ túc – PT chú). Tôi được đỗ thứ 2, như vậy là trong 3 người trên cùng được bourse (Học bổng  PT chú) mỗi tháng 9 đồng. Tôi mừng quá về khoe ríu rít ở nhà. Thầy tôi bảo: “Thầy không muốn cho con nhận học bổng, sau này đỗ ra trường làm cô giáo, người ta bổ đi đâu cũng phải đi. Nhà mình, con đi học chỉ cần có kiến thức, không cần đi làm ăn lương gì cả. Con không nên nhận và để cho người đỗ thứ 4 lên thay con”. Tôi buồn quá, khóc với Me tôi. Thầy tôi thấy tôi buồn và có vẻ tiếc cái món bourse, một hôm Thầy tôi gọi vào buồng giấy và cho tôi một chồng 90 đồng bạc hoa xòe và bảo tôi: “Đây Thầy “đền” cho con 10 tháng học bổng. Con lấy muốn mua gì thì mua và yên tâm mà học hành”. Nhận được số tiền đó tôi mừng quá, tôi đi vội đến phố Hàng Khay sắm sửa bao nhiêu thứ mình vẫn thích: dentelle (Đăng ten – PT chú) viền áo, vòng đeo tay, dây chuyền đeo cổ, nhẫn, v.v và quà cho các anh các chị và các em…

Gia Dinh Sinh Nhat 2 cu

Thầy tôi có bà bạn là nữ sĩ Jeanne Duclos Salesses. Bà vẫn thường đến chơi với gia đình và làm nhiều bài thơ tặng Me tôi và em bé của tôi là em Yến. Được tin bà qua đời, sau đó em tôi cũng mất, Thầy tôi có viết một bài nói về Bà, trong đó có mấy câu tôi còn nhớ: “Son souvenir est attaché à un petit être qui m’est cher, à ma petite hirondelle chérie, qui, un mois après son départ, s’est envolée dans les airs, òu elle aurait du la retrouver…”(Tạm dịch là: Kỉ niệm về Bà gắn với một sinh linh nhỏ bé thân thiết với tôi, với chim yến nhỏ yêu quí của tôi, một tháng sau khi Bà ra đi, đã bay lên trời, nơi có lẽ cháu sẽ được gặp lại bà.- PT chú)

Năm 1935, chồng tôi sang Pháp thi doctorat en médecine (Bác sĩ y khoa – PT chú) 3 năm, tôi vào Huế với Thầy Me tôi và sinh cháu Tứ ở Huế. Năm 1937 có một sự kiện làm cho tôi xúc động và nhớ mãi. Hồi đó Me tôi có mang em Phạm Tuân được độ 6 tháng thì Me tôi mắc bệnh hen rất nặng, suốt ngày tôi ngồi vuốt ngực và xoa bóp cho Me tôi, nhiều lúc thấy lên cơn hen Me tôi khó thở tưởng như nếu kéo dài có thể chết. Thầy tôi đi làm về là vào ngay buồng thăm hỏi, vuốt ve và nói chuyện động viên và an ủi sẽ khỏi, v.v…Một hôm tôi thấy Thầy tôi ngồi với hai ông docteur (Bác sĩ – PT chú), nói chuyện gì mà tôi thấy Thầy tôi nét mặt buồn rầu tôi chưa từng thấy. Tôi đoán là có chuyện gì hệ trọng lắm. Sau đó, thấy Thầy tôi vào nói với Me tôi là các ông docteur hội chẩn và khuyên nên lấy cái thai ra thì mới khỏi nguy hiểm cho người mẹ. Me tôi khóc, bảo: “Đau đớn mấy tôi cũng cố chịu được, không khi nào tôi chấp nhận cái việc đó; vì tôi nằm mơ thấy rõ ràng có một thằng bé rất thông minh xinh đẹp chạy theo xe tôi và nói “Me, cho con về với me!””. Sau đó nhờ phúc ấm tổ tiên, Me tôi qua khỏi và sinh được đứa con thứ 15 của Thầy Me tôi. Thầy Me tôi thương và quý em lắm, cứ gọi là “chú Miềng”; năm nay em đã 55 tuổi, có 5 con rồi mà gia đình vẫn quen gọi là chú Miềng.

Thầy tôi có 16 người con mà lúc nào cũng chú ý săn sóc thương yêu như nhau, chưa hề bao giờ mắng mỏ con cái. Thầy tôi rất thông minh, uyên bác, tuy không phải là docteur nhưng có một “Larouse médicale” (Từ điển Larouse y khoa – PT chú) nhiều tập. Mỗi khi con cái ốm đau, Thầy tôi đều đem ra sưu tầm tra cứu và theo đơn trong sách chữa bệnh, hiếm lắm mới phải mời đến docteur.

Tháng tám năm 1945, Thầy tôi ra đi!! Than ôi cả Thầy Me tôi và các con đều không có thể ngờ rằng Thầy tôi ra đi mãi mãi!!! Chúng tôi khóc tưởng như có thể chết đi sống lại!! Sau đó, chị tôi và tôi nhờ một anh bạn là ông Vũ Đình Huỳnh ngày ấy làm garde corps (người hộ vệ – PT chú) cho Cụ Hồ, giới thiệu đến thăm Cụ và hỏi chuyện. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về…Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” Và tôi còn nghe một bà bạn là nữ sĩ Hằng Phương đến dâng Cụ ít cam và một bài thơ, nhân nói đến Thầy tôi cụ Hồ bảo:“Thật là đáng tiếc, dẫu sao cũng là một nhà văn học!”

Trời ơi, oan uổng cho Thầy tôi biết bao!!! Nỗi oan này khắc sâu trong lòng chúng tôi, nỗi hận này đến kiếp nào cho khuây!…

Thầy ơi, chúng con thật là bất lực, xin cúi đầu nhận tội với Thầy.

Phạm Thị Thức

28/10/1992

Thu ba Pham Thi Thuc_2

Bản sao chụp phần cuối bài của bà Phạm Thị Thức viết tại Hà Nội ngày 28/10/1992.

Tháng Ba 24, 2024

Phạm Quỳnh có quan hệ thế nào với Dưỡng Am Phạm Hội – Dã Thảo

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 7:37 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười sáu, kỳ 1 tháng 4 năm 2024.

PHẠM QUỲNH QUAN HỆ THẾ NÀO

VỚI DƯỠNG AM PHẠM HỘI?

Dã Thảo

Dưỡng Am Phạm Hội (1791-1854) là người làng Hoa Đường, xã Lương Đường, huyện Đường An (Nay là làng Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang), Hải Dương. Cả làng chỉ có độc một nghề là nghề dạy học. Sau ông đến cư ngụ ở thôn Tự Tháp, huyện Thọ Xương (Nay là quãng phố Hàng Trống và phố Nhà Thờ), Hà Nội.

Năm 1819, niên hiệu Gia Long thứ 18, ông đỗ cử nhân, làm quan đến chức giáo thụ. Được vài năm thì lấy cớ mẹ già và bản thân bị bệnh “sơ cuồng” (tức là hơi điên!), xin cáo quan về nhà, mở trường Dưỡng Am dạy học, ở địa điểm nay là tòa soạn báo Nhân Dân, 71 phố Hàng Trống. Trường này là một trong những trường đông học sinh nhất Hà Nội. Sau đó, trường bị cháy mới chuyển về phố Châm Cầm. Ngoài dạy học, ông còn trước tác. Tác phẩm của ông có Dưỡng Am tạp lục (ký hiệu Văn-A.1066, Thư viện Khoa học Trung ương), và theo Viện Hán Nôm mới cho biết thì còn có khoảng 3000 bài thơ nữa.

Phạm Hội có hai đời vợ và một bà thiếp. Đến năm 40 tuổi mới sinh được một trai, đặt tên là Khiêm Trai Phạm Ngạch. Ba mươi hai tuổi, ông Ngạch đỗ tú tài; có hai con đều chết khi mới 17 tuổi. Nên khi ông Ngạch mất, ông nội Phạm Quỳnh được thừa tự gia sản của cụ Phạm Hội để lại: một căn nhà nhỏ hình ống ở số 1 phố Hàng Trống, là một trong bốn căn nhà ở Hà Nội do học trò xây dựng nên để thờ thầy. Vì cụ Dưỡng Am cũng như các thầy thời ấy, đều dạy học mà không thu học phí, chỉ nhận quà cáp học trò tùy tâm biếu mà thôi: khi thúng gạo, lúc con gà, mớ cá, bó rau…sống đạm bạc.

Chính tại căn nhà số 1 phố Hàng Trống này, Phạm Quỳnh đã chào đời. Và “tam đại đồng đường” sống ở đấy nhiều năm, trước khi bán lại cho Nguyễn Bá Trác, chủ bút phần Hán văn trên báo Nam Phong và gia đình chuyển sang sống ở số nhà 17 cùng phố. Những con trai, gái đầu của vợ chồng Phạm Quỳnh đều sinh tại nhà số 1 này.

Dưỡng Am Phạm Hội dù có số tác phẩm lớn như vậy, nhưng chưa được nghiên cứu đánh giá, cho nên ông không có tên trong Từ điển văn học (bộ mới) của nhà xuất bản Thế Giới (2004), chỉ có tên trong Lược truyện các tác gia Việt Nam tập I (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971) và Tìm hiểu các tác gia Hán Nôm Hải Hưng, do Nguyễn Nhã biên tập, Ty Văn hóa Hải Hưng – Thư viện Khoa học tổng hợp tỉnh xuất bản năm 1973.

31.8.2009

D.T.

Tháng Mười Hai 7, 2023

Phạm Quỳnh vẫn sống trong lòng cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ta

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 3:08 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 2 tháng 12 năm 2023.

PHẠM QUỲNH VẪN SỐNG TRONG LÒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TA

Blog PhamTon

Phạm Quỳnh sinh ngày 30/1/1893 (năm Nhâm Thìn) tại Hà Nội và mất tại Huế ngày 6/9/1945 (năm Ất Dậu), tức là sinh dưới thời Pháp thuộc và mất sau ngày nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời bốn ngày…

Từ ngày mất, gần như Phạm Quỳnh “biến mất” trên trường chữ nghĩa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trừ một trường hợp độc đáo: nhà văn “tả thực” lớn nhất nước ta, đang lúc ở đỉnh cao danh vọng, được nhân dân cả nước yêu mến, thì Nguyễn Công Hoan cho ra mắt tác phẩm cuối đời, ngay giữa Thủ đô Hà Nội, tác phẩm Đời viết văn của tôi (NXB Văn Học-1972-in 3200 cuốn). Trong đó, ông dành hai trang 160-161 thành thật viết rõ là mình sáng tác truyện ngắn nổi tiếng Kép Tư Bền, chỉ vì thương… Phạm Quỳnh!

Sau khi phát hành ít ngày, sách ấy bỗDoi viet vanng “biến mất” trong các hiệu sách và tất nhiên trong tất cả các thư viện công. Mãi đến năm 1996, đất nước đổi mới tròn mười năm, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã ra đời lâu rồi, mới lại thấy sách ấy được NXB Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tái bản với số lượng thật khiêm tốn: vẻn vẹn có 500 cuốn. Nhưng hai trang 181-182 vẫn còn nguyên văn phần nói về nhà văn viết Kép Tư Bền, chỉ vì thương Phạm Quỳnh. Đây là lần đầu Phạm Quỳnh xuất hiện trong lòng Tổ quốc mình, nay đã là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam!

Sau đó 10 năm, lại 10 năm, năm 2005, trong một mục nhỏ Ý kiến – Trao đổi của một tạp chí nhỏ ở tỉnh lẻ Hải Dương tờ Khoa học và Ứng dụng số 2 đã đăng trên hai trang 9-10 bài Phạm Quỳnh chủ bút báo Nam Phong của Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, một người cùng quê Hải Dương với Phạm Quỳnh. Bài này, sau đó đăng lại trên tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học và Công nghệ, số 12 ngày 20/6/2006. Và ngày 10/7/2006 lại đăng trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc số 13 (278) cơ quan của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

Cuối năm 1992, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã viết một tham luận gửi hội thảo do Viện Văn học dự định tổ chức (không thành) tại Hà Nội. Sau này, bài được đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số tháng 7 năm 2005, đổi nhan đề và cắt đi một số đoạn. Đó là bài Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Cuối năm 2005, trên Tiền Phong Chủ Nhật các số 44, 45 và 46 đăng bài Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong, tức bài Những điều chưa biết về nhà văn hóa Phạm Quỳnh của Xuân Ba, đã bị tổng biên tập hồi ấy đổi tên “sau khi đã xén của tôi đi một nửa” (chữ của Xuân Ba)

Trước đó bốn năm, NXB Văn học đã cho phát hành 700 bản Mười ngày ở Huế của Phạm Quỳnh. Trong Lời nhà xuất bản (trang 8) viết: “về mặt văn hóa, văn học, về tiến trình phát triển nền văn xuôi quốc ngữ thì công lao đóng góp của ông cần được nhìn nhận lại. Vì vậy việc cho in lại các bút ký du lịch của Phạm Quỳnh chỉ là cụ thể hóa sự đánh giá lại tác giả này trên lĩnh vực văn học – báo chí, với tư cách là một tác giả văn học.”

Năm 2003, NXB Văn Hóa Thông Tin – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phát hành 1000 bản Phạm Quỳnh – Luận giải văn học và triết học (644 trang) do Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu. Trong Lời giới thiệu, Trịnh Bá Đĩnh viết: “Làm nên cốt cách ngòi bút của ông là các bài luận giải, khảo cứu mà nội dung nghiêng về tư tưởng và các vấn đề học thuật. Ở đó ta thấy một sự hiểu biết uyên bác, một cách diễn giải chu đáo tỉ mỉ, một nhiệt tình quảng bá tư tưởng, được diễn tả với một văn phong chặt chẽ, khúc chiết, chắc nịch mà các độc giả trí thức chắc sẽ ưa chuộng”.

Năm 2004, NXB Hội Nhà văn xuất bản Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh cũng 1000 bản, Vương Trí Nhàn chú giải. Tháng 3 năm 2007, NXB Trẻ phát hành 2000 bộ Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam Phong 1917-1934 do Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và giới thiệu. Mỗi bộ bồm ba tập, mỗi tập khoảng 650 trang, trong đó có nhiều bài của Phạm Quỳnh. Sau này, năm 2013, chính Nguyễn Hữu Sơn đã sưu tầm và biên soạn Phạm Quỳnh tuyển tập du ký (NXB Trí Thức, 511 trang, khổ lớn 16x24cm phát hành 600 bản, Nguyễn Hữu Sơn viết: “Học giả Phạm Quỳnh viết du ký vừa thỏa mãn hứng thú nội tâm, trình bày những cảm xúc riêng tư vừa hướng tới giới thiệu những điều trải nghiệm tai nghe mắt thấy liên quan đến mỗi thắng cảnh di tích lịch sử và đời sống xã hội nơi phương xa. Đó cũng là nhu cầu tự nhiên kết nối giữa chủ thể sáng tác và phía tiếp nhận, nghĩa là bạn đọc cũng sẽ được hướng dẫn đi tham quan, du lịch, hành hương về xứ đẹp và cội nguồn lịch sử dân tộc nhờ chính các trang du ký. Du ký của Phạm Quỳnh là một nhà bảo tàng du lịch bằng ngôn từ nghệ thuật, giúp người đọc bốn phương “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”… Về phong cách nghệ thuật, du ký của Phạm Quỳnh hòa quyện được phẩm chất, tư thế học giả, nhà khảo cứu, bản lĩnh trí thức, nhà văn và nghệ sĩ (…) Nhìn chung trên địa hạt du ký, có thể khẳng định Phạm Quỳnh không chỉ đứng đầu Nam Phong Tạp Chí mà cũng là nhà viết du ký xuất sắc trong suốt cả thế kỷ XX.”

Cuối năm 2007, NXB Tri Thức cho ra mắt Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 – Essais 1922-1932, 1000 tập sách khổ 14, 5×20, 5. Việc xuất bản tác phẩm này cũng như bộ ba tập Du ký Việt Nam nói trên khiến năm 2007 có nhiều cuộc thảo luận về Phạm Quỳnh nhân ra mắt sách và còn âm ỉ lâu dài trên báo chí. Người dân thoải mái nói về Phạm Quỳnh, đặc biệt là khen ngợi tài năng và đạo đức của ông.

Năm 2011, NXB Hội Nhà Văn và Công ty Nhã Nam xuất bản 2000 cuốn sách gồm những bài viết cuối đời của Phạm Quỳnh, bao gồm 11 bài tạp văn và 51 bản ông dịch thơ Đỗ Phủ lấy tên chung là Hoa Đường tùy bút. Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết ngay đầu sách bài Lạ lùng một cuốn sách dở dang. Ông viết đầy xúc động: “Cuốn sách này của Thượng Chi – Phạm Quỳnh, cầm lên, nhẹ tay đến xót xa (11 bài tản văn, bài dài nhất chỉ chín trang, bài ngắn nhất vọn vẹn một trang! Và mấy chục bài thơ dịch Đỗ Phủ). Những trang viết cuối cùng của một người, một đời. Dở dang, thậm chí bài cuối cùng còn dừng giữa dòng, mà lại rất có thể sẽ là bài tâm huyết nhất của ông, về Kiều, mà ta biết ông gắn bó đến chừng nào. Ông nói: “Tôi với Truyện Kiều không phải là thái độ một nhà văn với một tác phẩm mà là tâm lý một người có cảm giác là một hội một thuyền…” Và “Trong cuộc “lăn lộn” (ngày nay ta gọi là dấn thân)” ấy, như ta biết, Phạm Quỳnh đã thất bại. Ông lui về ẩn dật, và bắt tay viết Hoa Đường tùy bút. Vậy Tùy bút Hoa Đường là gì? Thoạt nhìn, mươi bài tạp văn, không có chủ đề chung, không đường dây dẫn dắt nhất quán, tản mạn, rời rạc, như chợt nhớ đâu viết đấy, chợt nghĩ gì thì nói ra… Nhưng mà đọc đi đọc lại, ngẫm kỹ, rất có thể đây là một sự chuẩn bị, chuẩn bị cho một cuộc tổng kết lớn, và sâu, rất sâu nữa, mà tiếc thay, ông đã không kịp làm”. Rồi: “Tiếc thay ý đồ tổng kết lớn của ông, báo hiệu qua mấy phác thảo ngắn mà sắc như dao này, đã phải dở dang, Nhưng quả đây là một cuốn sách lạ, ngắn vậy mà cứ muốn đọc đi đọc lại, bởi dẫu dở dang, đọc cứ như tác giả đang nói về chính những điều xã hội ta đang phải đương đầu hôm nay.

“Những tư tưởng lớn, dù chỉ mới được nói ra một cách manh nha, vẫn có sức đi xa lạ lùng của chúng. Và nghĩ cho cùng, cũng không hề chậm”.

Năm 2006 là năm đáng chú ý về hiện tượng Phạm Quỳnh xuất hiện trở lại trên xuất bản và báo chí Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đầu năm, NXB Văn Học và công ty sách Thời Đại cho tái bản Thượng Chi văn tập của Phạm Quỳnh dày đến 1134 trang, in tới 1000 bản và chính thức bán và quảng cáo với bích chương lớn tại Hội sách thành phố Hồ Chí Minh tháng 3 năm đó. Tháng 8/2006 trong số 140 tạp chí hằng tháng Công giáo và Dân tộc có đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước, rồi tháng 9, trong số 267 tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam lại đăng bài Người nặng lòng với nước, tạp chí Nghiên cứu và phát triển ở Huế, số 3 (56) năm 2006 đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nhà, rồi tháng 9, tạp chí Công giáo và Dân tộc lại đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta. Tất cả mấy bài đăng trên mấy tạp chí Hà Nội, Huế, Sài Gòn kể trên đều là của Phạm Tôn.

Bẵng đi hai năm, lại thấy tác giả này xuất hiện trên Hồn Việt, một tạp chí của Hội Nhà Văn Việt Nam.

Số 15/9/2008 Hồn Việt có bài Ông Phạm Quỳnh là người nặng lòng với nước và số 17/11 là bài Phạm Quỳnh, cuộc phiêu lưu không tránh khỏi bi đát… hai nhan đề này là do tòa soạn đặt. Nhan đề vốn có chỉ giản dị là Ông quả là người nặng lòng với nước (bài 1 và 2)

Chúng tôi nghĩ sở dĩ có sự trở lại ngoạn mục của Phạm Quỳnh trên sách báo Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam một phần lớn là do trong Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2003, tập 3 đã có Mục Phạm Quỳnh, Nam Phong và có cả mục Pháp Việt đề huề với lời lẽ khá đúng mực, cởi mở hơn trước. Rồi năm 2004, Từ Điển Văn Học (bộ mới) của NXB Thế Giới ra mắt bạn đọc cũng đã có Mục Phạm Quỳnh do Nguyễn Huệ Chi viết (từ trang 1364 đến trang 1366) và mục Nhóm Nam Phong do Phương Chi viết (từ trang 1270 đến trang 1272). Nguyễn Huệ Chi viết: “Phạm Quỳnh là người làm việc không cẩu thả, dù dịch thuật hay trước tác, ông đều tra cứu cẩn thận, đắn đo câu chữ rất nhiều. Hơn nữa ông có thiên hướng thích loại văn chương nghị luận hơn là văn cảm hứng nên ngòi bút điềm đạm mực thước không phóng túng (…) Ngay cả những thiên du ký, phần tra soát luận lý vẫn nhiều hơn những trang nói lên tâm trạng và cảm xúc của mình, nên giá trị sưu khảo trong đó rất lớn (Chẳng hạn bài viết về lễ tế Nam Giao), nhưng đây đó vẫn có những nhận xét tinh tế dí dỏm. Là người biên khảo, lần đầu tiên Phạm Quỳnh cấp cho người đọc những khái niệm bước đầu về mỹ học nói chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết… nói riêng (…) Là người chú tâm rèn luyện câu văn quốc ngữ sao cho kịp trình độ văn chương thế giới, nhất là diễn đạt được các phạm trù trừu tượng, như tư tưởng tâm lý, triết học… Phạm Quỳnh đã hết sức du nhập và Việt hóa được nhiều khái niệm bắt nguồn từ Hán ngữ và làm cho tiếng Việt phong phú lên rất nhiều. Tiếng Việt qua thời Nam Phong có vẻ như đằm lại, pha phách nhiều chữ Hán hơn thời Đông Dương tạp chí, nhưng, chính là với trường đào luyện của Nam Phong, nó đã có một bước ngoặt căn bản để đạt đến một hệ từ vựng cao cấp hơn hẳn trước, đáp ứng yêu càu phát triển văn hóa giai đoạn 1932-1945, nhất là trong hệ thống ngôn từ học thuật biểu hiện ở các công trình biên khảo nở rộ từ sau năm 1940.”

Một dấu hiệu chỉ rõ sự cởi mở hơn của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là ngoài những tác phẩm của Phạm Quỳnh được tái bản hoặc xuất bản lần đầu và những bài viết về ông đánh giá con người và sự nghiệp của ông công bằng hơn trước, còn có việc xuất hiện cả những sách viết về ông. Năm 2010, NXB Thanh Niên ấn hành 2000 cuốn Phạm Quỳnh, con người và thời gian của nhà giáo, nhà văn Khúc Hà Linh người cùng quê Hải Dương với Phạm Quỳnh. Đến đầu năm 2012, tác giả lại chỉnh sửa và bổ sung nhiều đến mức NXB Thanh Niên cho ra đời Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc.

Quí 3 năm 2011, NXB Công an Nhân dân ấn hành 1000 cuốn Phạm Quỳnh, một góc nhìn của một người con xứ Huế, đại tá tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan. Đúng một năm sau, quí 3 năm 2012, lại cho ra mắt, Phạm Quỳnh, một góc nhìn (tập 2) của cùng tác giả. Nhà giáo kiêm nhà văn và đại tá kiêm tiến sĩ sử học ra hai tập sách đã dẫn đến hai cuộc hội thảo về Phạm Quỳnh, một ở Hải Dương, quê hương ông (tháng 6 năm 2010), một ở Huế, nơi ông sống những năm cuối đời và gửi lại nắm xương tàn (tháng 8 năm 2012). Cả hai cuộc hội thảo đều khẳng định Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn, có công với nước trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, nhất là ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt, cuộc hội thảo ở Hải Dương do chính Ủy ban Nhân dân tỉnh và ban tuyên huấn tỉnh ủy tổ chức. Cả hai buổi hội thảo đều được đưa lên truyền hình địa phương, hoàn toàn công khai, minh bạch với bàn dân thiên hạ.

Cuối năm 2013, NXB Tri Thức ấn hành Chúng tôi đã sống như thế của Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Ánh Tuyết tại Hà Nội, và nhà văn nữ Hà Khánh Linh xứ Huế có tác phẩm Những dấu chân của mẹ (NXB Văn Học). Cả hai tác phẩm đều có viết về ông với lòng kính yêu vô hạn.

Như thế là giờ đây, Phạm Quỳnh con người suốt đời trung với nước, hiếu với dân, mặc dù có số phận oan nghiệt đã có thể ngậm cười nơi chín suối: Tâm nguyện của ông đã được thực hiện, nước đã độc lập, dân đã ngày càng được sống tự do và no ấm hơn. Và những đóng góp của ông cho nước, cho dân ngày càng được nhìn nhận công bằng hơn và vẫn giúp ích cho đời cứ như ông vẫn sống trong cuộc đời này.

Vì “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, đúng như một câu thơ Kiều.

Thành phố Hồ Chí Minh 28/10/2014.

B.P.T.

Tháng Mười Một 22, 2023

“Thổ nạp Á Âu” – Con đường văn hóa của Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:29 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 1 tháng 12 năm 2023.

“Thổ nạp Á Âu” – Con đường văn hóa của Phạm Quỳnh

Vĩnh Khánh

Lời dẫn của Phạm Tôn: Đây là bài chúng tôi tải được từ https://kinhtedothi.vn/tho-nap-au-a-con-duong-van-hoa-cua-pham-quynh.html 14:07 ngày 12/11/2022. Ảnh dưới bức hoành có bốn chữ nho Thổ Nạp Âu Á là do chúng tôi thêm vào.

Xin cám ơn tác giả Vĩnh Khánh và tạp chí Kinh Tế Đô Thị.

—o0o—

Phạm Quỳnh là một nhân vật lịch sử đặc biệt bởi những đóng góp to lớn về văn hóa, giáo dục và những đánh giá suốt gần một thế kỷ qua. Nhưng gần đây, công luận xã hội đã nhìn nhận về ông một cách công bằng hơn, đặc biệt là vai trò của một nhà văn hóa.

Dung hòa văn hóa Đông, Tây

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ đã dẫn đến một tình thế khó khăn về lựa chọn, tiếp nhận văn hóa. Người Pháp cố tình áp đặt văn hóa Pháp, văn hóa phương Tây vào văn hóa Việt Nam lúc này đã lạc hậu, cằn cỗi và bệ rạc vì văn hóa Trung Hoa. Lựa chọn con đường nào cho văn hóa nước nhà trong bối cảnh đó? Cố khư khư giữ nền văn hóa cũ như nhà Thanh (Trung Quốc) hay chấp nhận từ bỏ truyền thống văn hóa dân tộc để chuyển hẳn sang văn hóa phương Tây? Hay tiếp nhận các yếu tố tiến bộ của văn hóa phương Tây để dung hòa với các truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Đây là một cuộc lựa chọn khó khăn của các thế hệ trí thức cựu/Nho học và tân/Tây học.

Phạm Quỳnh đã nhận thấy tình thế đó khi ông cho rằng: “Ta đang ở chỗ giáp giới hai nền văn minh. Văn minh phương Đông cũ kỹ nhưng là cái vốn có của ta, bỏ đi không nỡ; văn minh phương Tây mới mẻ nhưng tự ngoài đem lại, thâu lấy cũng khó… Xét bề ngoài, tựa hồ như có bên thắng bên bại, tình thế đã rõ ràng, nhưng người mình đối với bên nào cũng còn lúng túng chưa quyết hẳn theo một phương châm nhất định, không biết nương tựa vào đâu. Các nhà cựu học chán đời không làm gì. Phái tân học chủ trương chỉ theo Tây học… Vấn đề văn hóa ở nước ta khó khăn phiền phức vô cùng”…

Là trí thức tân học có nền tảng tri thức Nho học phong phú, Phạm Quỳnh là một trong những người tiên phong lựa chọn con đường duy tân văn hóa. Ông chủ trương “Thổ nạp Âu Á”, có nghĩa là dung hòa văn hóa Đông, Tây, bỏ cái dở, giữ cái hay của văn hóa cổ truyền, tiếp thu những cái hay, cái tốt, cái khoa học của văn hóa phương Tây để xây dựng nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh mới của đất nước và thời đại.

Sự lựa chọn đó xuất phát từ nhận thức khoa học của ông về văn hóa. Theo ông: “Phàm sự văn hóa là phải vun trồng tự nơi căn bản, nếu bỏ căn bản của mình mà chuyên sao chép của người khác, tự mình không có gốc sẵn mà đi mượn của người ta thời như người vay lãi mà ăn, sớm muộn tất có ngày vỡ nợ”; và: “Nếu ví con người như cái cây thì văn hóa là cách vun trồng, chăm bón sao cho con người nảy nở được hết cái tốt đẹp của mình”.

Pham Quynh o Hoa Duong

Phạm Quỳnh nhận thức văn hóa là cội nguồn, là sức sống của một dân tộc, có độc lập về văn hóa mới có độc lập về chính trị, mới có cơ hội cứu nước. Ông từng viết: “Từ khi biết nghĩ đến giờ, lúc nào tôi cũng băn khoăn khắc khoải về vấn đề văn hóa của nước mình, tưởng như hạnh phúc cả một đời, vận mệnh cả một nước là ở đó”. Ông quan niệm: “Tiếng ta còn, nước ta còn”, phải giữ cho bằng được “Tiếng ta” mà theo ông là hồn cốt dân tộc – tức nền văn hóa dân tộc, thì mới tiến tới giành được độc lập dân tộc.

Ngày 31/5/1922, diễn thuyết ở Trường Thuộc địa (Pháp), Phạm Quỳnh xác quyết: “Chúng tôi là một dân tộc cổ kính có một nền văn hóa lâu đời, ngày nay muốn hội nhập vào thế giới hiện đại, nhưng dứt khoát không muốn từ bỏ nền văn minh, cái quá khứ mà tổ tiên đã để lại qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi muốn là chính mình. Muốn giữ lấy bản sắc của mình, giữ lấy cái quốc hồn quốc túy của dân tộc mình”.

Ngày 22/7/1922, diễn thuyết tại Hội Hàn lâm Luân lý Chính trị học (Pháp), Phạm Quỳnh khẳng định: “Nhưng dân Việt Nam chúng tôi, không thể ví như tờ giấy trắng được. Dân tộc chúng tôi là một quyển sách cổ đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai, đã mấy mươi thế kỷ nay; không có thuốc gì xóa hẳn được thứ chữ ấy đi. Không ai có quyền tự do muốn viết gì vào đấy thì viết được. Quyển sách cổ ấy, có thể đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang, nhưng không thể đem in một thứ chữ ngoài lên trên các dòng chữ cũ được”.

Vì vậy, ngay từ rất sớm, ông đã ra sức phấn đấu cho một nền văn hóa dân tộc bằng phương pháp riêng của mình, đó là báo chí và học thuật.

Nam Phong tạp chí – cỗ xe văn hóa

Từ năm 1907, Phạm Quỳnh đã tham gia Đông Kinh nghĩa thục, dạy tiếng Pháp, tiếng Việt và diễn thuyết ở đây. Ông cũng bắt đầu viết báo khoảng thời gian này, nhiều nhất cho Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Nam Phong tạp chí là nơi làm nên sự nghiệp báo chí, văn hóa, học thuật và chính trị của ông; nhưng những rắc rối về nhận thức, đánh giá đối với ông cũng chủ yếu từ Nam Phong tạp chí mà ra.

Xuất bản Nam Phong Phong tạp chí là chủ trương của chính quyền thực dân nhằm thúc đẩy đường lối Pháp – Việt đề huề, thân Pháp. Phạm Quỳnh biết điều đó nhưng ông nhận lời làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí vì ông muốn sử dụng nó, biến nó thành Ngọn gió nước Nam để truyền bá tư tưởng, học thuật đông tây, kim cổ; truyền bá chữ Quốc ngữ, xây dựng nền Quốc văn, Quốc học, phát triển văn hóa, khích lệ tinh thần dân tộc. Ông tâm sự: “Sở dĩ tôi nhận mở báo Nam Phong vì chính phủ tự lòng cho phép chớ không phải tôi yêu cầu. Và tôi muốn lợi dụng làm một cơ quan bồi bổ quốc văn, cho thêm nhiều tiếng, cho đủ tài liệu để phiên dịch và truyền bá các tư tưởng Âu Tây…”.

Với 210 số, mỗi số hơn 400 trang, Nam Phong tạp chí là một kho tư liệu đồ sộ gồm những sáng tác đương đại; các dịch phẩm triết học, văn học thế giới và các tác phẩm văn chương, lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán và chữ Nôm.

Theo Phạm Thế Ngũ, Phạm Quỳnh cho phiên dịch và in nhiều tác phẩm triết học phương Tây là để hướng tới xây dựng cho nước nhà một nền học thuật mới thay thế cho Hán học suy tàn. Sâu xa hơn, ông muốn dần dà gây lấy trong quốc dân một chủ nghĩa quốc gia ôn hòa dựa trên cơ sở văn hóa.

Vào đầu thế kỷ XX, dân trí của ta đương thời còn lạc hậu, nền Hán học đã bộc lộ sự bất lực của mình trước nền văn minh kỹ trị phương Tây ngày càng tiến bộ. Nhưng để tiếp thu được các tư tưởng tiến bộ phương Tây và đồng thời giữ được cái hay, cái tốt của văn hóa dân tộc thì phải xây dựng một vốn liếng ngôn ngữ Việt Nam nhằm diễn đạt các tư tưởng mới mẻ đó. Ông cổ súy sử dụng và phát triển chữ Quốc ngữ, hoàn thiện dần tiếng Việt để có thể diễn đạt được mọi khái niệm cao xa, mới lạ của nền học thuật mới. Ông là người đi đầu trong việc sử dụng chữ Quốc ngữ. Ông viết 458 bài/1391 bài tiếng Việt đăng trên Nam Phong.

Theo Vũ Ngọc Phan: “Ông là người đã chủ trương cái thuyết: Đọc sách Tây là để thâu thái lấy tư tưởng, lấy tinh thần văn hóa Âu Tây, để bồi bổ cho nền quốc văn còn khiếm khuyết, để chọn lọc lấy cái hay của người mà dung hòa với cái hay của mình, ngõ hầu gìn giữ cho cái học của mình không mất bản sắc, mà vẫn có cơ tiến hóa được”.

Có thể nói, Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đã tiếp nối sự nghiệp của Đông Kinh Nghĩa Thục mà ông đã từng tham gia. Con đường mà ông lựa chọn cùng chí hướng với Phan Chu Trinh là nâng cao dân trí, khai hóa cho đồng bào và đấu tranh bất bạo động.

Về Nam Phong tạp chí, theo Thiếu Sơn, “nhiều người không biết văn Tây, văn Tàu có thể chỉ nhờ đọc Nam Phong mà có được cái tri thức phổ thông về văn chương và học thuật Đông Tây”. Vũ Ngọc Phan cho đó là một “bách khoa toàn thư”. Còn Thanh Lãng thì nhận định: “Muốn hiểu văn học Việt Nam vào hồi này (1913 – 1932) không gì tốt hơn cho bằng nhìn vào Nam Phong. Nam Phong là linh hồn, Nam Phong là tất cả văn hóa thế hệ 1913 – 1932”.

Quả thực, Phạm Quỳnh đã tập hợp được khá đông đảo trí thức tân học và cựu học để tạo được một phong trào nâng cao dân trí sôi nổi, một không khí văn hóa, văn học mới, một nền tảng học thuật mới, một nền Quốc học, Quốc văn tiến bộ.

Bên cạnh các hoạt động báo chí học thuật, ông còn là sáng lập viên, Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức, Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội; Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ; tham gia Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ, Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương. Năm 1932, ông là Đổng lý văn phòng sau đó Thượng thư Bộ Học rồi Bộ Lại của triều đình nhà Nguyễn.

Tháng Mười Một 8, 2023

Trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 10:34 sáng

 Blog PhamTon năm thứ năm mười lăm, kỳ 2 tháng 11 năm 2023.

TRƯỞNG NỮ CỦA HỌC GIẢ PHẠM QUỲNH

Dã Thảo

Bà Phạm Thị Giá, trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh, sinh ngày 27/10/1913 (tức 28 tháng 9 năm Quý Sửu) tại nhà số 1 phố Hàng Trống Hà Nội, sau anh trai là Phạm Giao, trưởng nam, sinh năm 1911. Nhưng, bà lại mất ở Bạc Liêu, tại nhà con gái út, nơi bà sống tám năm cuối đời, ngày 16/12/2000 (tức 21 tháng 11 năm Canh Thìn).

Đám tang bà giản dị, ngoài gia đình cô con út sống ở Bạc Liêu, hai con trai từ Hà Nội, chỉ có cháu đích tôn, bố mẹ cháu, bốn người cháu gọi bằng bác, một người bạn của gia đình từ Thành phố Hồ Chí Minh về và bà con lối xóm, bạn bè vợ chồng cô con út. Đó chính là làm theo lời bà dặn từ nhiều năm trước khi mất mà tất cả các con đều nhớ rõ: “Suốt đời mẹ chỉ sống cho gia đình, không làm nên việc gì ích nước lợi dân, cho nên mẹ muốn khi chết, không loan báo trên báo đài gì hết, chỉ những bà con gần gũi biết là được rồi.

Đám tang lặng lẽ đi trong mưa nhẹ phương Nam…

Cuộc đời gần một thế kỷ của bà không ít thăng trầm, trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới và hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc suốt hơn ba mươi năm ròng,  và thời bao cấp khốn khó sau chiến thắng thống nhất đất nước. Bà đã làm tròn trách nhiệm người công dân Việt Nam yêu nước thương nòi như thân phụ bà và làm tròn nhiệm vụ người vợ thảo, người mẹ hiền, một mình nuôi dạy bầy con thơ dại nên người.

Ba bo va chu than

*

*      *

Là con gái trưởng, gia đình lại đông con, mới 15 tuổi đầu bà đã phải phụ mẹ lo việc gia đình, chăm sóc đến…tám em nhỏ. Kể cả bế ẵm các em, cho các em ăn. Cho nên bà chỉ học tiểu học, không được học lên.

Năm 18 tuổi thì lấy chồng, một chàng trai xứ Huế, có chí, có tài, nhưng nghèo, con một quan huyện từ quan khi chưa đến tuổi bốn mươi, vì không chịu làm theo lệnh quan Tây đi bắt Cộng sản, những người mà ông khẳng định lương thiện, không thể bắt.

Vợ 18, chồng mới 24, lại gánh một gánh nặng bên nhà chồng đông chị em…

Ong ba noi Cu Ton That Cung Cu Pham Quynh

Bà không bao giờ quên những ngày còn ở bên cha mẹ, mà bà gọi là thầy, me. Bà gần gũi với cha, thức chép các bài cha dịch miệng đến khuya, đun nước pha trà cho cha, bổ cam cha xơi lấy sức mà làm việc. Chính ông đặt tên cho bà là Giá, cái giá, vì khi mới sinh, bà trắng như cái giá. Thật là dân dã nôm na và biết bao yêu thương. Khi bà sinh con gái đầu lòng, cũng là lúc ông vào Huế làm quan, ông bảo khi nào cho cháu vào Huế là thăm được cả bên nội, bên ngoại. Hai vợ chồng bà sống nhiều năm tại nhà số 5 phố Hàng Da, nơi gia đình ông từng sống và có thời còn là trụ sở tạp chí Nam Phong nổi tiếng hồi đầu thế kỷ XX. Các em Phạm Bích học Luật, Phạm Khuê học Y đều sống ở nhà bà. Ngoài ra, còn có ông anh họ và em trai chồng bà cũng từ Huế ra Hà Nội học. Vợ chồng bà cưu mang tất cả. Chồng bà là Tôn Thất Bình, dạy học ở trường Gia Long, sau là phó hiệu trưởng của Trường trung học Thăng Long (Ngõ Trạm) nổi tiếng. Từ ngày có con đầu lòng, ông còn nhận làm chủ bút cho tờ La Patrie Annamite (Tổ quốc An Nam). Mỗi tháng lĩnh lương, ông lại bỏ tiền vào từng cái hộp gỗ nhỏ, ngoài có ghi tên từng đứa con, để sau này lo cho việc học hành của các con. Gia đình bà Giá sống êm ấm như vậy cho đến năm 1945, nhiều biến cố đã xảy ra, khiến bà từ một phụ nữ chỉ biết lo cơm ngon canh ngọt, dạy dỗ các con đã phải đứng ra chèo chống cả một gia đình, mà không phải chỉ là gia đình nhỏ của riêng bà.

Gia Dinh Sinh Nhat 2 cu_2

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, em trai Pham Khuê về nghỉ hè ở Huế vội ra báo cho chị biết cha đã bị bắt ngày 23/8. Bà cùng chồng và vợ chồng người em gái là bà Phạm Thị Thức và bác sĩ Đặng Vũ Hỷ bàn nhau phải xin gặp Cụ Hồ để kêu oan và giao cho em Khuê là người biết rõ sự việc viết thư trình Cụ. Bà nhờ ông Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ và công tác ở văn phòng Chủ tịch xin được gặp. Ông Phan Bôi là em ruột ông Phan Thanh, cùng làm việc ở Trường Thăng Long với chồng bà Giá. Ông Nam sốt sắng nhận lời và sau đó, ngày 31/8/1945, hai chị em bà được Cụ Hồ tiếp lúc 11 giờ, nhận thư, ngay sau khi Cụ duyệt lại lần cuối cùng Bản Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ đọc ngày 2/9.

Sau này, bà vẫn nhớ mãi thái độ thân thiết ân cần của người đứng đầu Nhà nước trong buổi tiếp và lời dặn của Cụ nói các chị cứ yên tâm, tôi sẽ xem xét. Chính vì thế, bà lại càng không thể hiểu được vì sao sau đó thân phụ lại bị hạ sát bí mật, hơn ba tháng sau mới công bố trên hai tờ báo nhỏ của địa phương.

Bấy giờ, bà đang bụng mang dạ chửa cô con út.

Sau quốc khánh đầu tiên của nước ta, báo chí loan “tin vui” là từ nay chấm dứt các vụ bắt bớ, nhân dân yên tâm làm ăn dưới chế độ mới. Nhưng lạ thay, vẫn có “ngoại lệ”. Tối 7/9/1945, có hai người xưng là học trò cũ, đến nhà xin đưa thầy Tôn Thất Bình đi giữa lúc ông cùng gia đình đang ăn bữa tối. Quá bất ngờ và đau khổ tột cùng, bà Giá đau bụng dữ dội và đã sinh con gái út ngay 10 giờ đêm hôm sau, 8/9/1945.

Những tưởng “hai học trò mời thầy đi có việc” ít lâu sẽ về nên bà Giá chưa vội cho làm khai sinh, chờ chồng về làm như những lần trước. Nhưng chờ mãi không thấy, mới nhờ em rể là dược sĩ Phùng Ngọc Duy làm giấy khai sinh cho cháu. Thành ra, trễ mất 10 ngày. Nay đã ở tuổi 65 mà chưa biết mặt cha, giấy khai sinh của bà Tôn Nữ Thanh Nhàn vẫn ghi ngày sinh là 18/9/1945.

Đẻ con xong, bà hoàn toàn mất sữa và bị liệt, mắt mờ, phải điều trị hơn nửa năm mới đi lại được và nhìn thấy đường. Bà lo ngay việc kiếm sống cho gia đình nay đã mất nguồn sống do chồng mang về hằng tháng, lại cưu mang thêm bao nhiêu người ngồi không. Vì từ sau ngày 23/8, được sự giúp đỡ của ông Hoàng Hữu Nam, cả đại gia đình trong Huế đã ra sống ở nhà số 5 phố Hàng Da này. Ông anh cả và bà vợ hai với ba con, các em trai gái, cộng lại tất cả gần hai chục miệng ăn. Bà em đón mẹ và các em nhỏ về sống cùng, còn lại, bà gánh hết… Đi lại được là bà Giá lên bà em có chồng dược sĩ mở hiệu thuốc, cất thuốc, cho vào cái làn mây trắng nhỏ, xách đi bán ở các nhà quen, vì hồi ấy thuốc khan hiếm, ai cũng cần. Rồi lại nhờ ông Hoàng Hữu Nam, biết được chỗ và được cấp phép đi thăm nuôi chồng “an trí” ở Hoài Đức Hà Đông, mang cho chồng sách học tiếng Anh Anglais sans Peine (Tiếng Anh dễ học) để ông học cho qua thời giờ. Cậu em Phạm Khuê, thương chị và hiểu cảnh nhà, ngày đi học, tối ra rạp Olympia ở trước chợ Hàng Da, kéo đàn phong cầm trước khi chiếu phim, Phạm Tuyên, mới 15 tuổi, chưa làm được gì… Cứ thế, bà Giá dốc dần các hộp gỗ nhỏ đề tên các con ra để chi tiền chợ hằng ngày. Cho đến năm 1946, tình hình kinh tế gia đình đang lúc kiệt quệ nhất thì có lệnh tản cư, toàn quốc kháng chiến bắt đầu.

Gia đình bạn bè bà đều về quê, nhưng bà biết về quê nào… Quê chồng thì quá xa, quê cha thì đã mấy đời định cư ở Hà Nội rồi, còn ai biết mình! Bàn với bà bạn thân là Nguyễn Thị Nội, ở ngay trước cửa nhà, cùng phố. Thì bà này mời về quê chồng, tức họa sĩ Nguyễn Cát Tường, cha đẻ của áo dài tân thời, cũng là thầy dạy vẽ ở trường Thăng Long. Thế là bà Giá chân yếu tay mềm, ngày trước chỉ nhất nhất theo lời chồng, đã dẫn đại gia đình gần 20 người cả lớn lẫn bé kéo nhau về làng Tràng Cát Hà Đông. May nhà ông anh họ họa sĩ có cái nhà mới làm, chuẩn bị cho con trai lấy vợ, ba gian, hai chái, tường gạch, mái rơm sẵn sàng cho mượn. Cả non hai chục con người về đấy, cũng vào rừng vải quét lá mà đun, ra sông nông trong vắt mò trai, hến, vẹm mà nấu, xào. Dần dà, trẻ con người lớn đều bị ghẻ lở như dân làng, phải nấu lá xoan mà tắm. Và đau mắt đỏ, phải nhỏ … nước muối. Mùa đông, nẻ, rán mỡ gà mà thoa mặt. Con út bà đành sống bằng cháo loãng pha với đường đỏ. Con trai út, thì ăn một bát xôi nhỏ mỗi sáng cùng cô bé chị họ đều ba tuổi. Còn tất cả, từ năm tuổi trở lên, thì nhịn. Ngày chỉ ăn hai bữa cơm độn ngô, khoai với củ cải muối cả củ như dân làng. Hôm nào mò được trai, sò, hến thì mới có chất đạm.

Được hơn nửa năm thì kiệt quệ quá, bà bàn với Phạm Khuê, 21 tuổi, tìm về nhà bà em kế là bà Phạm Thị Thức đang ở quê chồng tận Nam Định. Móc nối được rồi, bà Thức cho người ra Hà Đông đón, cả nhà đi thuyền về Nam Định. Đến ngã ba sông Tam Tòa, Nho Quan thì bị vướng một thảm bèo dày hàng thước, người đi trên mặt bèo được, dài hàng cây số, do tắc ở hàng cọc cắm xuống lòng sông để “chống tàu chiến giặc Pháp”. Phải bỏ thuyền nhỏ, đi bộ trên bèo, lên thuyền lớn mới về đến nhà bà em.

Ở đấy được hơn một năm thì cô con thứ hai của bà ho ra máu mấy lần, chỉ còn cách đưa về Hà Nội may ra mới cứu được. Bà đành bỏ lại con gái lớn và hai con trai nhờ bà ngoại nuôi, đưa con gái đau yếu và hai con nhỏ ra Hà Nội. Phải thuê người gánh mới đi nổi đường xa. Thằng anh năm tuổi, một bên thúng; thúng kia con em gầy yếu phải dằn thêm mấy hòn gạch mới gánh được.Ba noi va bac My

Bà đi sau, đỡ con gái đau yếu. Vất vả lắm mới theo kịp người đàn bà nhà quê gánh hai con nhỏ. Cuối cùng cũng về đến Hà Nội tạm bị giặc Pháp chiếm. Gặp lại bà em có chồng dược sĩ tạm lo cho nơi ăn chốn ở là bà nghĩ ngay đến việc đưa con gái đi chữa bệnh. Chiếu điện, thì ra bị lao nặng, hai phổi đã nát gần hết. Hồi ấy, ở Hà Nội cũng chưa có thuốc đặc trị, nghe nói còn đang thử nghiệm tận bên Pháp. Bà em đành lo thuốc thang cho cháu với các thuốc tìm được, “cầm cự được tới đâu hay tới đó”. Cô gái 14 tuổi phải kiêng khem, ăn riêng, ở riêng một buồng nhỏ. Khổ nhất mà cũng buồn nhất là không được lại gần hai em ở cùng nhà, lại khôn nguôi nhớ ba chị em ở xa. Một đêm mưa lạnh, bà đang nằm bên hai con nhỏ thì nghe có tiếng thét to, ghê rợn, hốt hoảng từ buồng con gái. Bà vội chạy ngay đến mở cửa thì thấy cô gái mặt xanh nhợt, đang gục đầu bên thau rửa mặt đầy máu. Bà đỡ ngực con, vuốt nhẹ lưng, lấy khăn lau mặt cho sạch rồi hỏi nhẹ nhàng: “Nó ra thế này là tốt lắm, con có thấy nhẹ người không…”. Cô gái nhắm mắt nằm yên trong lòng mẹ, thở nhẹ nhàng và thiu thiu ngủ. Sau này, chính bà cũng không hiểu vì sao lúc ấy mình có thể bình tĩnh, mà nói được câu ấy… Bà gọi thợ may về nhà, may đo cho cô một cái áo dài lót bông màu đỏ sẫm, nổi bật khuôn mặt thanh tú, xinh đẹp của cô gái 15 tuổi, đôi má bà thêm chút phấn hồng. Bà đưa cô đi xem kịch ở nhà hát lớn, tối tối lại đọc truyện cho cô nghe. Các truyện trinh thám, mới đọc được nửa chừng , cô đã đoán ra kết cục, không muốn nghe nữa. Những chuyện tình cảm thì thường là buồn, kết thúc bi đát, bà không muốn cô thêm nặng lòng vì những chuyện không đâu. Cuối cùng, chỉ đọc truyện cổ tích và chuyện cười. Cứ như thế, hằng ngày bà đi mua đồ gỗ cũ về nhà sơn hoặc đánh véc ni lại, cho sửa chữa chút ít rồi bán giá rẻ cho những gia đình mới “hồi cư” về Hà Nội, cũng tạm đủ tiền ăn hằng ngày. Tiền thuốc men chữa bệnh tốn kém nhất thì đã có bà em lo. Nhưng rồi cũng chỉ cầm cự được gần hai năm thì cô gái mất, đám tang toàn hoa loa kèn trắng.

Ít lâu sau, ba đứa con nương nhờ bà ngoại cũng về đoàn tụ với gia đình. Cô con cả đi làm cho bà em ở hiệu thuốc, còn hai em trai, bà lo tìm ngay chỗ học cho con. Lỡ năm học, đành vào học trường tư. Lại thêm một khoản tiền phải chi. Bà bỏ nghề bán đồ gỗ cũ chuyển sang mở cửa hàng may y phục phụ nữ và trẻ em. Được mấy năm thì nghe tin Hà Nội sắp giải phóng. Bạn bè, bà con đến khuyên gia đình bà nên đi Nam “để tránh cộng sản”, chí ít, cũng nghĩ đến tương lai các con trai mà cho chúng đi. Bà vẫn quyết định cả nhà ở lại. Lý do thật đơn giản mà vững chắc: Bà chờ chồng về… Mấy ngày trước khi Hà Nội giải phóng, đọc các tờ rơi kêu gọi đồng bào chuẩn bị đón quân ta vào giải phóng thủ đô, bà cho may thật nhiều cờ đò sao vàng, bày ở tầng dưới quầy. Có tối, lính Tây mũ đỏ say sỉn sau khi nốc rượu ở quán gần nhà, vào cửa hàng, thấy có bày bán cờ đỏ sao vàng chúng hỏi. Thì bà thản nhiên đáp bằng tiếng Pháp: “Cờ của nước chúng tôi đó…” Chúng nghe, rồi xua tay, bỏ đi, không gây gổ gì. Cà nhà và hàng xóm nữa, ai cũng sợ. Còn chính bà Giá, sau này nói với mọi người là không hiểu sao lúc ấy mình không sợ mà lại dám nói như thế.

Rồi Hà Nội giải phóng, cả nhà bà vui mừng cùng đồng bào thành phố đón quân ta về, mong ngày đoàn tụ với người thân mười năm xa cách. Tối nào bà cũng đi họp phụ nữ, con cái thì đi họp thanh niên, thiếu nhi mong hiểu thêm về chế độ mới. Rồi cháu đích tôn của học giả Phạm Quỳnh là Phạm Vinh về, là bộ đội văn công. Và em trai Phạm Khuê cũng về thăm, là đại úy quân y. Cuối cùng là Phạm Tuyên, từ Khu học xá trung ương tận bên Trung Quốc cũng về. Theo nếp cũ gia đình, hễ họp nhau là cùng hát. Nhưng là những bài hát mới do những người mới về dạy cho. Có cả bài Liên Xô, Trung Quốc lời Việt.

 Vui thì cũng vui nhưng chưa trọn vẹn. Chồng bà vẫn chưa về, mà cũng chẳng có tin tức gì. Bấy giờ, bà mới nghĩ là sao lại không viết thư hỏi người đồng nghiệp dạy cùng trường Thăng Long với chồng ngày xưa, nay đã là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà bảo con viết thư gửi đại tướng hỏi xem nay chồng bà ở đâu, xin cho biết tin. Thì ít lâu sau, nhận được thư trả lời của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Nhân Dân Việt Nam: Một bản in sẵn, chỉ điền tên người vào. Đại ý: Xin gia đình vui lòng cho biết đồng chí Tôn Thất Bình, nhập ngũ ngày nào, tại đâu và trực thuộc đơn vị nào…. Thế là tiêu tan hy vọng! Rồi sau đó, có việc truy quét thổ phỉ Bắc Hà, bà lại nhờ người quen ở Mặt trận Tổ Quốc dò hỏi hộ trong số người bị chúng bắt và sử dụng có chồng mình không. Nhưng tất cả đều vô vọng. Gia dinh ba Pham Thi Gia

Cô con lớn , làm cho bà em cùng theo vào Nam giúp việc dì nơi đất mới, với hy vọng chỉ hai năm sẽ lại về với mẹ nhân hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Genève.

Nay thì đã vắng tin chồng, lại bặt tin con. Tuy vậy, bà vẫn hòa nhập vào cuộc sống mới đầy khó khăn vất vả. Có cái máy khâu, bà góp vào hợp tác xã may gia công, hằng ngày đi bộ hai buổi đến nơi làm việc. Tối lại họp phụ nữ, làm đại biểu phụ nữ khu phố. Chủ nhật thì làm vệ sinh viên, lo tiêm chủng, săn sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, còn tham gia lao động chân tay, dùng chảo nhà mang đi múc bùn hôi thối góp phần xây dựng công viên Thống Nhất, đi quét rác làm đẹp thành phố.

Rồi giặc Mỹ leo thang chiến tranh, bà theo hợp tác xã lên Hà Bắc sơ tán, tiếp tục sản xuất, cứ mỗi tháng đều cố về Hà Nội một lần “cho đỡ nhớ” và thăm con trai thuộc ngành giao thông vận tải, vẫn làm việc tại Hà Nội. Có lần bà đem cả một con gà mình nuôi, rán lên, làm món trộn thật ngon lành cho con trai sống một mình, ăn cơm tập thể. Nhưng anh con dăm hôm sau mới về nhà, thấy mấy hàng chữ phấn trắng mẹ viết trên mặt bàn lúc hai giờ sáng là “đã đến giờ phải ra tàu lên Hà Bắc, không đợi con được, chúc con ăn ngon miệng món con vẫn thèm”. Bên cạnh đó là một dĩa rau trộn héo úa và đĩa gà rán đã lên meo bông trắng.

Thời gian hợp tác xã may sơ tán lên Hà Bắc, bà Giá vẫn làm thêm nhiệm vụ vệ sinh viên như khi công tác phụ nữ đường phố. Bà phát thuốc, tiêm chích thuốc thông thường, chữa cảm, cúm, mỏi mệt hoặc sơ cứu các vết thương… Một lần Mỹ bắn phá khu vực hợp tác xã, có xã viên và cả dân làng bị thương, bà đều đem  túi thuốc đến cấp cứu kịp thời. Từ băng bó đến ga rô cho máu ngừng chảy, kịp thời sơ cứu để đưa lên tuyến trên an toàn. Mặc bom rơi, đạn bắn, bà vẫn làm nhiệm vụ đúng với lương tâm người làm nghề thuốc, dù chỉ là một vệ sinh viên bình thường, không hưởng lương. Có người hỏi vì sao bà bình tĩnh được trong những hoàn cảnh như vậy, bà bảo lúc đó tôi chỉ biết có người bị thương, bị đau, không thấy gì khác. Rồi bà kể chuyện năm xưa khi con gái thổ huyết giữa đêm lạnh. Ai cũng cảm mến bà. Và phục nữa. Dù bà không bao giờ đạt năng xuất cao hơn người.

Đến cuối năm 1972, Mỹ ném bom B52 rải thảm Hà Nội thì gia đình bà lại… đoàn tụ ở thủ đô. Các con xin bà thôi việc ở hợp tác xã, về nhà lo mấy bữa ăn cho các con. Bà xin về. Khi thanh toán thì hóa ra những lần về Hà Nội, bà đều có vay một ít tiền, nay tính lại số tiền ấy gần bằng tiền hóa giá cái máy khâu. May mà còn đủ tiền cho bà mua vé tàu về nhà. Bà rất mừng là không phải vay mượn vào ngày chia tay Hợp tác xã.

Hằng ngày, các con đi làm sau khi ăn bữa sáng tuy đạm bạc nhưng nóng hổi, ngon lành do bà chuẩn bị từ sớm. Sau đó, bà đi Pham Thi Giamua thực phẩm ở các điểm bán hàng dã chiến, người bán hàng ngồi ngay trên miệng một hố cá nhân tránh bom. Một tối, bà khoe với các con là đã tìm được một điểm mua không phải xếp hàng, chỉ phải gọi một tiếng là có người bán hàng ngay. Các con hỏi và kinh hãi khi bà cho biết bà “mua thực phẩm ở ngay đầu cầu Long Biên. Ngay trên tầng cao của cầu đã có bộ đội phòng không sẵn sàng tay súng thường trực, không phải lo máy bay”.

Rồi Hiệp định Pari, hòa bình lập lại trên cả nước. Đám cưới con trai út của bà đón dâu bằng ba chiếc xe đạp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đi một xe. Con trai thứ đèo một bà bạn bà. Con trai út đón cô dâu. Bữa ăn đón dâu do bà và bà bạn nọ cùng vợ chồng con gái út chuẩn bị.

Sau ngày đất nước thống nhất, con trai cả và út đều đã có gia đình, con cái ở Hà Nội. Con trai thứ chưa vợ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Con gái về quê chồng Bạc Liêu cùng các con. Bà lần lượt sống với bốn con, bao giờ cũng cố gắng có mặt lúc các con cần mình nhất như khi sinh con hoặc cưới.

Những năm cuối đời, bà sống ở Bạc Liêu cùng con gái út, lại lo cho con cháu đến hết đời. Bà bảo: “Không gì vui bằng khi trông thấy đứa cháu nhỏ mỉm cười sau cơn sốt hầm hập kéo dài”. “ Mẹ không cần Tết, đối với mẹ khi nào các con sum họp thì đó là ngày Tết của mẹ rồi”

Bà có cái thú là viết thư cho chị em và các con. “Viết thư, mẹ thấy như được gặp mặt và trò chuyện với những người thân yêu vậy.” Chính nhờ những lá thư đó và tấm lòng kính yêu vô hạn của bà với thân phụ mà nhà báo Phạm Tôn mới có tài liệu sinh động, cụ thể, tỉ mỉ để viết nên những trang gây xúc động lòng người đăng trên các báo Xưa và Nay ( Người nặng lòng với nước), Công giáo và Dân tộc (Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước), Nghiên cứu và Phát triển (Người nặng lòng với nhà) và  nhà báo Nguyễn Trung có bài trên Công giáo và Dân tộc ( Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta). Thư bà viết bao giờ cũng đem lại niềm vui sâu đậm cho người nhận.

Bà còn có tài kể chuyện sinh động đến mức có chuyện thế này: Các bạn xã viên cùng bà đi dự một đám cưới con một bà bạn cùng phân xưởng. Hôm sau đi làm là nài nỉ bà kể lại cho họ nghe chuyện đám cưới mà chính họ cùng dự với bà hôm trước. Để rồi cười trước cả khi bà sắp kể đến những đoạn vui trong đám cưới đó. Thành ra, thật không phải nói quá là bà có gien văn nghệ cha truyền. Vì lo cho cha, chồng, con, cháu mà bà hy sinh hai tài năng của mình là viết văn và diễn kịch. Chỉ còn là những tài lẻ, sở thích đem lại niềm vui cho mọi người thân. Cả trong và ngoài gia đình bà.

Chẳng thế mà nữ sĩ Tương Phố (14/7/1900-8/11/1973) tác giả Giọt lệ thu nổi tiếng một thời lại gắn bó thân thiết với bà. Xuân Quý Tị 1953, nữ sĩ đã viết tặng bà bài Âm thầm lòng em trên giấy mỏng, đóng thành một quyển sách nhỏ. Bài thơ gồm hai câu mở đầu và mười khổ, mỗi khổ bốn câu, chữ cuối câu cuối khổ này lại là chữ mở đầu của câu đầu khổ sau, cứ thế cho đến hết. Trong bài, có những câu:

Con dại một bầy ăn học dở

Mình em kiêm mẹ lại kiêm cha

Năm trôi lận đận chỉ vì con!

Con lớn, con khôn, mẹ héo hon.

Mai mốt sân hòe dù nảy quế,

Trăm năm nghĩa cả có vuông tròn?

Trang 0 (am tham)

(…)

Tuong pho_Am Tham Long Em 2

Trang đầu và khổ thứ 10 của bài thơ

 Kỷ niệm 10 năm ngày mất bà Phạm Thị Giá (16/12/2000-2010)

D.T.

Tháng Bảy 23, 2023

Phạm Quỳnh, một sĩ phu Hà Nội

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 9:28 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 1 tháng 8 năm 2023.

 PHẠM QUỲNH, MỘT SĨ PHU HÀ NỘI

Phạm Tôn

Năm 1908 Phạm Quỳnh đã đỗ thủ khoa năm đầu tiên của trường Trung học Bảo Hộ. Nhân dân thường quen gọi là “Thủ khoa Tây trường Bưởi”.

Pham Quynh_1922 tai PhapCũng năm 1908 ấy, trường Đông Kinh Nghĩa Thục của cụ Cử Can ở phố Hàng Đào bị Pháp đóng cửa. Chàng học sinh con nhà nghèo đến mấy đời Phạm Quỳnh đã cùng các bạn tham gia đấu tranh phản đối nhà đương cục. Bị Pháp bắt, nhưng rồi được thả vì chưa đến tuổi thành niên.

“Thủ khoa Tây” được tuyển ngay vào làm nhân viên trường Viễn Đông Bác Cổ, một cơ quan nghiên cứu khoa học lớn, đủ mọi mặt toàn xứ Đông Pháp. Năm ấy, “công chức” Phạm Quỳnh mới mười lăm tuổi. Vốn ham hiểu biết, lại được làm việc dưới sự chỉ bảo của các “đại sư” người Pháp uyên thâm nhiều lĩnh vực, và được ở bên, ở ngay trong kho sách lớn có một không hai trong nước ta, Phạm Quỳnh thả sức học tập, đọc miệt mài, hết tra cứu, đến so sánh, lại ghi chép… đến quên cả giờ về nhà. Tại đây Phạm Quỳnh quen biết Nguyễn Văn Tố, sau này cũng là một học giả nổi tiếng, từng tham gia chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đầu tiên của cụ Hồ.

Những năm làm việc ở Trường Viễn Đông Bác Cổ (1908-1917) cũng chính là những năm học tập miệt mài, khổ công tự học và thành tâm, khiêm tốn học hỏi các bạn đồng nghiệp Pháp Việt đã đưa Phạm Quỳnh từ một thanh niên hiếu học trở thành một nhà nghiên cứu có kiến thứPham Quynh chu but Nam Phongc vững chắc, khá toàn diện về nhiều ngành khoa học xã hội và cả khoa học tự nhiên nữa. Đặc biệt, từ một học sinh chỉ viết được có hai chữ nho tên mình, suýt bị trượt kỳ thi tốt nghiệp trường Trung học Bảo hộ vì bài dịch Hán văn ra Pháp văn đáng lẽ bị điểm liệt, may mà được các giám khảo nương tay cho nửa điểm mới đỗ “Thủ khoa Tây”, sau chín năm trời đã trở thành một nhà Hán học uyên thâm, có thể đọc, dịch và viết văn bằng chữ Nho thành thạo. Chủ yếu là do công tự học kiên trì và có phương pháp đúng.

Do có vốn liếng vững chắc về khoa học xã hội, năm 1913, Phạm Quỳnh đã trở thành một cây bút quen thuộc, được tín nhiệm trên Đông Dương tạp chí của người bạn cùng học trường Thông Ngôn năm nào Nguyễn Văn Vĩnh. Từ đó Phạm Quỳnh nổi tiếng với nhiều bài nghiên cứu sắc sảo, chững chạc, già dặn hơn tuổi đời hai mươi của mình rất nhiều.

Những bài báo đó “lọt mắt xanh” của Louis Marty, giám đốc Vụ Chính trị Phủ Toàn quyền Đông Dương và cả bản thân Toàn quyền Albert Sarraut nữa. Hai con cáo già thực dân này đã quyết định dùng Phạm Quỳnh làm cầu nối giữa Pháp và Việt Nam, giữa lớp trí thức cũ Hán học và lớp trí thức mới Tây học.

Năm 1917 tạp chí Nam Phong ra đời với chủ bút phần quốc ngữ là Phạm Quỳnh, mới hai mươi bốn tuổi.

Chẳng bao lâu, tạp chí Nam Phong đã trở thành tờ báo có uy tín nhất và lớn nhất thời bấy giờ. Báo quy tụ được cả những nhà cựu học uyên thâm lẫn những người tuổi trẻ tài cao. Phạm Quỳnh dùng Nam Phong tạp chí làm cơ quan để “tài bồi” cho văn quốc ngữ trở thành tiếng nói, chữ viết chuyển tải được những sự phát triển mới trong đời sống xã hội, đủ các ngành khoa học.

Vì ông tin rằng, có tiếng mới có nước, tiếng còn thì nước không mất được.

Năm 1922, với danh nghĩa Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức do ông sáng lập, Phạm Quỳnh sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Marseilles. Ông tranh thủ diễn thuyết ở nhiều nơi để người Pháp hiểu thêm và do đó tôn trọng nước và người Việt Nam mình. Ông còn nhờ các bạn bè người Pháp quen biết từ hồi họ còn ở Việt Nam mà tìm ra đường đến diễn đàn Viện Hàn Lâm Pháp. Bài nói của ông thuyết phục đến nỗi các viện sĩ có mặt nhất loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng, một hiện tượng chưa từng xảy ra ở nơi tụ hội tinh hoa của cả nước Pháp, gây chấn động lớn khắp thủ đô Paris. Ông nói dân tộc Việt Nam không phải là một tờ giấy trắng, ai muốn viết gì lên cũng được. Mà là một quyển sách cổ, đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai. Nếu muốn cũng chỉ có thể đóng quyển sách ấy lại theo lối mới cho hợp thời trang, chứ không thể viết một thứ chữ khác lên những trang đã đầy chữ rồi. Ông kiên quyết bảo vệ bản sắc Việt Nam.

Những ngày ở Paris, ông đã gặp và trao đổi ý kiến với Nguyễn Ái Quốc ít nhất ba lần; một lần còn được Nguyễn Ái Quốc “đích thân tổ chức bữa cơm Bắc thết khách Bắc” tại nhà luật sư Phan Văn Trường.

Ngày 8/9/1924, Phạm Quỳnh là người đầu tiên đứng ra tổ chức kỷ niệm ngày mất thi hào Nguyễn Du. Trước hơn 2000 người tham dự, câu nói bất hủ của ông đã được đồng thanh tán thưởng

Truyện Kiều còn tiếng ta còn, Tiếng ta còn nước ta còn.

Năm 1925, Phan Bội Châu bị đưa ra xét xử ở Tòa Đề hinh Hà Nội, nơi kết án tàn bạo nhất. Phạm Quỳnh không ngần ngại viết bài trên báo Indochine Républicaine (Đông Dương Cộng Hòa) lớn tiếng bênh vực nhà chí sĩ “chỉ có một tội là tội yêu nước” như tất cả mọi người Pháp yêu nước chống quân ngoại xâm xưa nay. Ông cốt nói rõ với những người Pháp còn có lương tri ở Đông Dương và càng muốn nói thẳng với người Pháp ở ngay chính nước Pháp. Phạm Quỳnh đã góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân hồi ấy đòi khoan hồng cho Phan Bội Châu. Thế rồi, từ một án tử hình, tám án chung thân, hạ dần xuống mức chỉ còn bị quản chế ở Bến Ngự xứ Huế. Mười lăm năm cuối đời Phan Bộ Châu, nhà báo Phạm Quỳnh, rồi Thượng thư Phạm Quỳnh lúc nào cũng bênh vực, tận tụy chăm sóc ông về tinh thần và cả vật chất nữa. Cho đến năm 1940 Thượng thư Phạm Quỳnh vẫn không ít lần đến tận nhà thăm và giúp đỡ nhà chí sĩ cho đến khi Phan Bội Châu qua đời.

Năm 1926, Thống sứ Bắc Kỳ René Robin có “nhã ý” trợ cấp cho tạp chí Nam Phong. Nhân cơ hội này, Phạm Quỳnh xin trợ cấp cả cho Nguyễn Văn Vĩnh mà ông trình bày trong thư gửi Robin là đã và đang làm nhiều việc mà còn gặp nhiều khó khăn hơn ông.

Ngày 4/12/1931, Phạm Quỳnh đã đưa ra trước Hội đồng cấp cao Đông Dương về Kinh tế-Tài chính đòi bãi bỏ chính sách độc quyền sản xuất rượu gạo ở Bắc Kỳ. Cuộc vận động này đã thành công, mở ra một thị trường rượu ở Bắc Kỳ, có cạnh tranh ở mức độ nhất định, khai thông phong trào cải cách ở Đông Dương và những nỗ lực bãi bỏ độc quyền cả ở các mặt kinh tế lẫn chính trị.

Năm 1932, Phạm Quỳnh vào Huế làm Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục kiêm Tổng lý Đại thần Ngự Tiền Văn Phòng. Thì ngay cuối năm sau, ông viết thư cho Louis Marty đề nghị khoan hồng cho người cộng sản trẻ tuổi Nguyễn Công Nghi bị kết án đày ra Côn Đảo hoặc nước ngoài vì tội “âm mưu cộng sản” ở Kiến An. Có lẽ xưa nay không có ai vừa nhậm chức lại đi làm một việc như thế, không hề nghĩ gì đến “cái ghế mình ngồi còn chưa ấm chỗ”.

Năm 1936, khi Nguyễn Văn Vĩnh chết thảm trên đường đi tìm vàng tại Lào thì Phạm Quỳnh đang là Tổng lý Đại Thần Ngự Tiền Văn Phòng và Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục. Vậy mà ông lại làm bài thơ Khóc Nguyễn Văn Vĩnh; Trong đó, bốn câu cuối rất lạ:

Sống lại như tôi là sống nhục.

Chết đi như Bác chết là vinh

Suối vàng Bác có dư dòng lệ.

Khóc hộ cho tôi nỗi bất bình.

 Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp rồi dựng lên chính phủ Trần Trọng Kim. Phạm Quỳnh rút khỏi chính trường, về nhà sống ẩn dật, chuyên tâm trở lại với nghề viết mà ông hằng yêu quí. Trong những ngày biến động này, ông em vợ thấy anh rể cứ bình chân như vại thì sốt ruột quá mới khuyên anh “nên tránh đi, sang Lào chẳng hạn vì xem ra vua Lào quí anh lắm.” Thì Phạm Quỳnh thản nhiên trả lời là “Chính lúc này mới càng cần ở trong nước để đem tài trí ra giúp nước”. Rồi lại cặm cụi đọc sách, viết văn.

Ông tự nhận “Đã lỡ lầm mà ra làm quan” vì tưởng “cái thân nho quèn” của mình có thể làm được những việc có ích cho dân cho nước mà trước đây chỉ thể hiện được trên giấy trắng mực đen. Ông “khởi động” bằng việc dịch thơ Đỗ Phủ, nhà thơ lớn Trung Quốc mà ông phục tài và yêu mến vì có phần cùng cảnh ngộ. Trong những ngày hè xứ Huế năm 1945 nóng như đổ lửa, ông cặm cụi dịch thô được 51 bài thơ tâm đắc thì ông gửi ngay vào Hà Tiên cho vợ chồng nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, bạn thân và người cộng tác cũ của Nam Phong. Sau đó “có đà rồi” ông bắt đầu đọc thật nhiều, nghĩ càng nhiều hơn để bắt tay vào viết những trang sách cuối đời mình. Bấy giờ, ông chuyên viết tạp văn, kiểu tạp văn của Lỗ Tấn. Thật sâu sắc, độc đáo nhưng lại rất ngắn gọn, súc tích, dễ đọc. Ông đặt tên cho bộ sách mới của mình là Hoa Đường tùy bút – Kiến văn, Cảm tưởng. Hoa Đường là tên làng quê ông xưa, những năm cuối này ông thường lấy làm bút danh. Trong bộ sách này, ông muốn dốc hết những gì mình từng thấy, từng nghe trong cuộc đời hơn ba mươi năm chìm nổi và cả những cảm tưởng khi mắt thấy, tai nghe hoặc đọc được, trình bày ra trang giấy để lại cho người đời sau có thêm kinh nghiệm sống. Trên bìa cuốn vở học trò, ông nắn nót ghi tên bộ sách mới, còn cẩn thận ghi thêm chữ số I La Mã; vì đây là cuốn đầu trong bộ sách mới, bộ sách cuối cùng mà ông quyết chắt lọc tinh túy trong cả cuộc đời mình để viết ra, không biết sẽ gồm bao nhiêu cuốn vở như thế này. Phạm Quỳnh còn giống Lỗ Tấn cả ở cách viết. Bản thảo đầu tiên thường cũng là bản thảo cuối cùng, chỉ thêm bớt mấy chữ hoặc chuyển vị trí vài dòng vài chữ mà thôi. Khi đưa đi in mới chép lại cho dễ đọc, khỏi làm khó thợ in. Thế thôi…

Biet thu Hoa DuongNhưng không ngờ quyển vở bản thảo số I mới viết đến trang số 48 được chừng nửa bài văn tâm huyết nhất đời ông nhan đề Cô Kiều với tôi thì đến giờ nghỉ trưa, ông mở trang vở viết dở, đặt ngang cây bút Waterman lên trên như để chiều sẽ viết tiếp, rồi đi ăn cơm và ra ghế xích đu ngồi nghỉ một lát thì có người đến báo: “Ủy ban khởi nghĩa Thuận Hóa mời ông ra làm việc.” Bà vợ nhác thấy người đến “mời” đeo băng cờ đỏ sao vàng ở tay thì thét to lên rồi ngất đi. Nhưng ông vẫn thản nhiên mặc áo dài đen, đầu để trần, tin cậy lên xe hơi đến đón. Cô con gái cưng xin chờ cho một chút để cô lấy thuốc dạ dày cho ông đem theo thì ông cười và dịu dàng bảo con: “Không cần đâu, chiều thầy về”.

Và ông lên xe, đi đến nơi làm việc như được mời.

Hôm ấy là ngày 23/8/1945.

Tp Hồ Chí Minh, 30/08/2014

P.T.

—o0o—

Sau khi đọc bài này, nữ nhà văn xứ Huế thân thiết với gia đình tôi đã gợi ý nên làm rõ việc Nguyễn Văn Vĩnh vì sao đi tìm vàng rồi chết thảm ở Lào. Chúng tôi may mắn tìm được bài viết Nhà văn hóa tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh của ông Nguyễn Lân Bình, cháu nội học giả Nguyễn Văn Vĩnh để làm rõ thêm cả việc vì sao Thượng Chi Phạm Quỳnh lại có bài thơ lạ và những câu thơ lạ khi biết tin ông từ trần. Xin phép được trích như sau:Nguyen Van Vinh

Cuối năm 1930, đầu 1931…đến thời điểm đó của lịch sử, Nguyễn Văn Vĩnh mới thấy cái nham hiểm của cái gọi là “hảo tâm” của Ngân hàng Đông Dương. Nhà Cầm quyền đinh ninh với chiếc thòng lọng “tiền”, nhất định sẽ khuất phục được Nguyễn Văn Vĩnh. Nhưng họ lại lầm lẫn một lần nữa về Nguyễn Văn Vĩnh. Họ trao Bắc đẩu Bội tinh, họ ban lá ngọc cành vàng của Vương Triều, họ cam kết xóa nợ chứ không phải chỉ bỏ xiết nợ, chỉ với một điều kiện: Chấm dứt toàn bộ việc viết!

Để giữ cái liêm sỷ của thằng người, để chứng minh cái chân chính của lý tưởng mà Nguyễn Văn Vĩnh theo đuổi trong sự nghiệp khai dân trí, để gia đình vợ con không phải thấy bị sỷ nhục nếu thấy mình phải đi tù, Nguyễn Văn Vĩnh chấp nhận giải pháp của Nhà Cầm quyền: Đi tìm vàng bên Lào để trả nợ!

Một thân một mình, giữa nơi rừng thiêng nước độc, sơm thâm cùng cốc của Vương quốc Vạn tượng, người ta tìm thấy thân xác ông trên một con thuyền độc mộc sau một đêm mưa gió, một tay vẫn giữ chặt cây bút, còn tay kia là quyển sổ vẫn đang viết tiếp ký sự “Một tháng với những người đi tìm vàng”. Đó là ngày 1.5.1936. Ngày hôm sau, Nhà Cầm quyền thông báo: Nguyễn Văn Vĩnh chết vì sốt rét và kiết lỵ, một trong những lý do ai cũng phải tin vào cái bối cảnh đó!

Vì lòng kính trọng, Hội Tam Điểm (Francmaçonnerie) nơi Nguyễn Văn Vĩnh là hội viên đã đưa thi hài ông về quàn ở trụ sở Hội, số nhà 107 phố Trần Hưng Đạo Hà Nội. Ngày 8.5.1936, đám tang của ông đã kéo dài suốt hai đêm và một ngày. Người ta vinh danh ông là Người công dân vĩ đại!

Nhà yêu nước Phan Bội Châu, vì đau cảm khi nghe tin Nguyễn Văn Vĩnh mất, đã gửi đôi câu đối viếng vừa bằng chữ Quốc ngữ, vừa bằng tiếng Hán, trong đó có đoạn:

“Mây hạc sẽ về đâu, ôi bạn ta ngọc báu của năm châu, kim khánh chửa từng đeo, há có như núi vàng mà cướp người tài mang đi mất…”.

Nhà yêu nước Nguyễn Văn Tố đã tổng hợp sự nghiệp đồ sộ của Nguyễn Văn Vĩnh, bằng một bài viết 30 trang trên Tạp chí của Hội Tương tác Giáo dục Đông kinh số 1 và 2 năm 1936 với khẳng định:

Bởi vì, riêng việc ông toàn tâm toàn ý phát triển chữ quốc ngữ, chỉ riêng việc đó thôi, đã bộc lộ toàn bộ cái giá trị của một con người đã đóng góp nhiều hơn bất kỳ ai, để khiến cho cái thứ chữ đó trở thành một trong những thành tựu bền lâu của trí tuệ con người.”.

CÁC MỐC QUAN TRỌNG TRONG CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH

– Là người Việt Nam đầu tiên là hội viên Hội Nhân quyền Pháp 1906.

– Là người đứng đơn xin Nhà Cầm quyền mở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, và xin thành công.

– Là Chủ bút của bẩy tờ báo trong 30 năm lao động.

– Là Chủ bút tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở phía Bắc Việt Nam Đăng Cổ Tùng Báo 1907.

– Là Chủ bút tờ báo đầu tiên thuần Việt Đông Dương Tạp Chí 1913.

– Là Chủ bút tờ báo ra hàng ngày đầu tiên ở Việt Nam Trung Bắc Tân Văn 1919.

– Là Chủ bút tờ báo tiếng Pháp L’Annam Nouveau – Nước Nam mới được giải thưởng lớn GRAND PRIX tại Hội chợ Báo chí thuộc địa 1932 tại Paris.

– Là người Việt Nam đầu tiên dịch các tác phẩm văn học, triết học, khoa học của gần ba mươi nhà văn, nhà tư tưởng, nhà khoa học, nhà chính trị của Pháp và thế giới ra tiếng Việt. Các tác phẩm kinh điển như của La Fontaine (Chuyện Ngụ ngôn), V. Hugo (Những Người Khốn Khổ), H. Balzac (Miếng Da Lừa), A. Dumas (Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ), Molière (Người Bệnh Tưởng), Manon Lescaut (Mai Nương Lệ Cốt), Gil Blas de Santillane … các triết gia nổi tiếng của Châu Âu như : La Rochefoucault, Jean-Jacques Rousseau, Blaise Pascal, François Rabelais, Gaston Paris….

– Là người Việt Nam đầu tiên năm 1920 đưa sân khấu kịch nói vào Việt Nam, thực hiện trên sân khấu Nhà Hát lớn Hà Nội qua các vở kịch của Molière.

– Là người Việt Nam đầu tiên hợp tác với hãng phim Indochinacinema của Pháp, biên kịch, dựng và thực hiện bộ phim điện ảnh đầu tiên của Việt Nam Kim Vân kiều năm 1924.

– Là người Việt Nam đầu tiên thực hiện thành công việc cải tiến chữ Quốc ngữ để chuyển được qua điện tín với nguyên tắc a a = â, u và w = ư, o và o = ô…. Đó là năm 1927.

– Là người Việt Nam thành công nhất trong việc dịch trọn bộ Truyện Kiều ra tiếng Pháp, Nhà Xuất bản Alexande de Rhodes ấn hành năm 1942.

– Là người Việt Nam duy nhất từ chối Kim khánh của Vua Khải Định. Từ chối hai lần Bắc Đẩu Bội Tinh của Chính phủ Pháp. Từ chối làm Thượng Thư cho Triều đình Huế.

(Nguồn bài: Diễn từ đọc tại Quỹ Văn hóa PHAN CHÂU TRINH)

Tháng Bảy 6, 2023

Năm 29 tuổi, Phạm Quỳnh đã đọc diễn văn trước viện Hàn Lâm Pháp

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 1:41 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 2 tháng 7 năm 2023.

NĂM 29 TUỔI, PHẠM QUỲNH ĐÃ ĐỌC DIỄN VĂN

TRƯỚC VIỆN HÀN LÂM PHÁP

Dã Thảo

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhân dịp này, chúng tôi mời quý bạn đọc bài Năm 29 tuổi, Phạm Quỳnh đã đọc diễn văn trước Viện Hàn Lâm Pháp để lên tiếng bênh vực văn hóa Việt Nam và ca ngợi tài trí nước ta ngay giữa thủ đô nước đang cai trị chúng ta.

*

*     *

“Ngày 22/7/1922, trong bộ quốc phục áo dài khăn đóng giản dị mà trang trọng, ông (Phạm Quỳnh – D.T chú) “cả gan” trình bày trước Ban Luân Lý Chính trị Viện Hàn lâm Pháp về Một vấn đề dân tộc giáo dục. Lời nói thật khúc chiết, hùng hồn, tha thiết, bằng một giọng văn tiếng Pháp mẫu mực, khiến các viện sĩ Pháp phải phá lệ, đồng loạt đứng dậy vỗ tay hồi lâu khi ông vừa dứt lời. Một hiện tượng chưa hề có trong lịch sử viện hàn lâm đầy uy tín này. Báo chí Pháp đương thời đã loan tin lạ này trên trang nhất, đăng lại bài diễn văn, kèm theo là bức ảnh ông mặc áo gấm, bế trong lòng cô con út mới sinh được mấy tháng.

(…) “Chống lại chính sách ngu dân của bọn thực dân Pháp đang thi hành ở nước ta, ông dõng dạc nói trước những đại biểu của tinh hoa trí tuệ và lương tâm Pháp hiện diện tại Viện Hàn Lâm Pháp những lời sau và đã được họ tán thưởng hoàn toàn:

“- Dân tộc Việt Nam chúng tôi không thể ví như một tờ giấy trắng. Chúng tôi là một quyển sách dày đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai đã từ mấy mươi thế kỷ. Quyển sách ấy có thể đóng theo kiểu mới cho hợp với thời trang, nhưng không thể đem một thứ chữ ngoài in lên dòng chữ cũ. Vấn đề là phải giáo dục người Việt Nam thế nào cho vừa truyền được học thuật cao thượng đời nay, vừa không đến nỗi khiến chúng tôi mất giống, không còn quốc tính, để biến thành một dân tộc vô hồn, không còn có tinh thần đặc sắc gì nữa, như mấy thuộc địa cổ của Pháp kia.” Nhà báo Nguyễn Trung đã viết như thế trong bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với tiếng ta (Nguyệt san Công giáo và Dân tộc số 141 tháng 9 năm 2006).

Nhưng, ở đầu cuốn Pháp du hành trình nhật ký, chỉ thấy ông viết: “Tôi được quan Thống sứ Bắc kỳ cử sang Đại Pháp thay mặt cho Hội Khai trí Tiến đức để dự cuộc đấu xảo Marseille, lại được quan Toàn quyền đặc phái sang diễn thuyết tại mấy trường lớn ở Paris, ngày 9 tháng 3 tây năm 1922 (tức là ngày 11 tháng 2 ta), xuống Hải Phòng để đáp tàu Armand Béhic về Pháp.” Bấy giờ, về học lực ông chỉ tốt nghiệp trường Trung học bảo hộ. Nên khi sang Pháp, ngày thứ năm 18/5/1922 ông viết trong nhật ký (Đăng trên báo Nam Phong – DT chú): “Cả ngày hôm qua xem điện Panthéon là nhà kỷ niệm các danh nhân nước Pháp. Ở trọ đi ra gần lắm, cách có vài phố. Đi qua con đường d’Ulm, thấy trường Cao đẳng sư phạm (Ecole Normale Supérieure), trong bọn học sinh thường gọi tắt là “cái nhà đường d’Ulm” (la maison d’Ulm), nhà cũng thường thôi, không lấy gì làm to lớn đẹp đẽ lắm, nhưng có cái  vẻ nghiêm  trang  bình  tĩnh,  thật  là  một  nơi  học  hành  cao  thượng.  (…) trong lòng cảm phục cái chí cao của kẻ thanh niên nước Pháp, mà lại bùi ngùi cho cái công học hành dở dang của mình. Than ôi! mình không phải là không có cái lửa nhiệt thành về sự học, nhưng mà sinh trưởng vào  giữa  buổi thanh  hoàng học không ra  gì  cả,  nho đã chẳng ra nho, mà Tây cũng chẳng thành Tây. Phàm sự học phải cho đến nơi đến chốn thì sở học sở hành mới điều hoà dung hợp nhau, mà gây nên cái nhân cách thanh cao. Hễ còn dở dang, còn nửa chừng, thì không ra con người gì cả. Ông cha mình mấy mươi đời học nho, nghiệp nhà đến mình là đoạn tuyệt. Bây giờ muốn cầu làm ông đồ cổ, bàn nghĩa tính lý, ngâm thơ nhà Đường, nhắp dăm ba chén chếnh choáng cho tiêu sầu khiển hứng, bảo mươi lăm thằng trò chẹt biết dã, giả, chi, hồ, an nhàn vô sự, ngày tháng vui qua, cũng không được nữa. Nói đến học Tây, thì chẳng qua học mấy câu tiếng tây để đi làm thuê, cũng tự biết còn thiếu thốn, muốn ra công học thêm, nhưng thày đâu sách đâu, ở trường thông ngôn ra, được học mấy ông hương sư ở Tây sang, thế đã là tột phẩm rồi, nào đã bao giờ được từng ngồi qua cái ghế một trường Đại học như trường Sư phạm này? Mà đã không được học đến bậc đó, thì còn mong lập nên sự nghiệp gì về đường học vấn? Dở dang, dở dang, thôi mình đã đành là một con người dở dang! – mà cả nước mình cũng là một nước dở dang! (…)

“Nhưng mà thôi, đã sinh vào buổi lỡ làng thì cũng phải chịu cái phận hẩm hiu vậy, biết sao bây giờ? Duy Phải biết rằng học đã chẳng ra gì, thời làm cũng chẳng nên chi, vì có gốc mới có lời, vốn ít mong sao được lời to? Cho nên cũng chớ có mong mỏi những sự to tát quá sức không làm nổi; chỉ nên hinh hương chúc vọng cho kẻ đến sau này họa được may mắn hơn mình chăng…”. Rõ là ông còn tự ti như vậy, thì vì sao, chỉ sau có hai tháng, ông lại đã đăng đàn diễn thuyết được ở viện Hàn lâm Pháp. Một việc không được Thống sứ Bắc Kỳ lẫn Toàn quyền Đông Dương giao. Mà chắc là cũng…không dám giao cho ông, vì không thể tin là có thể được mẫu quốc chấp nhận cho một tên dân bản xứ trẻ tuổi, không có học vị gì, lên diễn đàn Viện Hàn lâm. Vậy tại sao lại có chuyện lạ đó. Có phép lạ gì chăng…

Trong Pháp du hành trình nhật ký ngày thứ bảy, mùng 8 tháng 7, ông viết: “Tối ăn cơm ở nhà ông bà V. .Từ bữa nhân đến chơi với ông con là André được biết hai cụ, thì hai cụ cũng có lòng yêu mến, cố hẹn làm thế nào tối hôm nay cũng đến ăn cơm để nói chuyện. Hai cụ lại hẹn đến trước giờ ăn cơm để nói chuyện được lâu. Cơm nước xong mãi đến 11 giờ khuya  mới về trọ.” Và thứ ba 11 tháng 7 lại viết: “Trưa hôm nay ăn cơm ở nhà cụ ông cụ bà V.. Bữa nay chỉ có một mình, không có khách nào lạ cả. Chuyện trò rất vui vẻ và thân mật. Hai cụ thật có bụng quá yêu mà mình đối với hai cụ cũng một lòng kính mến.” Rồi thứ bảy, 15 tháng 7 năm 1922: “Hôm nay hẹn với cụ V. đến thăm ông bác sĩ Lyon – Caen là vĩnh viễn thư ký Hội Hàn lâm,  ban  Chính  trị  Luân  lý  học,  tại  nhà  riêng  ông  đường  Soufflot,  trước  cửa  đền Panthéon.

“Mấy lần nói chuyện với cụ V., cụ vẫn khuyên nên vào diễn thuyết ở Hội Hàn lâm.  Nhưng làm thế nào vào nói được ở một chốn tôn nghiêm như thế? Cụ nói rằng cụ có quen biết nhiều ở Viện Hàn lâm, để cụ sẽ giới thiệu cho ông vĩnh viễn thư ký là người chủ trương các việc đó. Bởi thế nên hôm nay cùng nhau đến thăm ông Lyon Caen. Ông dạy pháp luật ở trường Đại học Paris, tuổi đã cao, thật ra thái độ một nhà bác học thâm nho. Tiếp ân cần tử tế lắm; nói chuyện hồi lâu, rồi cụ V. mới ngỏ ý muốn có dịp cho mình được vào diễn thuyết ở Hội Hàn lâm, để trước là các ngài Hàn lâm biết được một người Việt Nam có học thức, sau là cho mình được bày tỏ ý kiến tư tưởng của người Nam ở một nơi cao nghiêm danh giá. Bác sĩ cũng hiểu các lẽ đó, nhưng có ý ngần ngại nói rằng: “Hội Hàn lâm còn có một kỳ hội đồng cuối tuần lễ này nữa thời giải tán để nghỉ hè, mà kỳ hội đồng này nhiều việc quá. Vả trừ các thông tín hội viên (membres correspondants) của Hội ở các nơi, còn người ngoài vào đây nói cũng ít. Người Đông phương thời năm trước có một ông bác sĩ Ấn Độ cũng vào diễn thuyết ở Hàn lâm, nhưng ông thuộc tiếng Anh hơn tiếng Pháp, nên nói khó nghe lắm. Tôi xem ông đây nói tiếng Pháp được, song xin để tôi liệu thu xếp xem có đủ thì giờ để ông nói ngay kỳ hội đồng sau này không.” – Bác sĩ hỏi định diễn thuyết về vấn đề gì; mình cũng đột ngột chưa định gì cả, nói sẽ chọn một đề về giáo dục hay văn hoá. Bác sĩ hẹn vài ba hôm sẽ trả lời cho cụ V. biết.

“-Vào diễn thuyết ở Hàn lâm, thật mình không bao giờ dám mơ tưởng đến sự đó. Việc này mà khởi ra thật là tại cụ V.; việc này mà thành được cũng nhờ cụ V.” Và thứ ba, 18 tháng 7 năm 1922: “ Hôm nay nhận được thư của ông Vĩnh Viễn thư ký Hội Hàn lâm bảo cho biết rằng Hội Hàn lâm sẽ vui lòng nghe mình diễn thuyết kỳ hội đồng ngày thứ bảy 22 tháng 7 này, xin đúng 2 giờ ngày ấy tựu tại Hội sở. – Thế là cái mơ tưởng hoang mang nay sắp thành sự thực đây. Nửa mừng mà nửa sợ, mừng là thật là một cái hạnh ngộ ít có, một sự vẻ vang không gì bằng; sợ là không biết nói làm sao cho nghe được, để khỏi phụ lòng các ngài có bụng chiếu cố đến, khỏi gây ra  cái cảm  giác xấu về người An Nam. Các ngài trong Hội Hàn lâm chắc là chưa từng biết người An Nam bao giờ; nếu mình nói năng không ra gì thì các ngài sẽ xét người nước mình ra thế nào? Bây giờ mới biết rằng kẻ sất phu cũng có trách với nước là thế. Mình chẳng có danh vị gì mà cũng phải lo đến quốc thể đây: Chà! chà! ghê quá! Không biết các ngài quyền cao chức trọng, đại biểu cho cả quốc gia, thì lo đến đâu; có lẽ đến không ăn không ngủ được chắc?!”

Rồi thứ tư, 19 tháng 7 thì: “Hôm nay ở nhà soạn diễn thuyết.

“Nghĩ trong các vấn đề thiết yếu cho người mình không gì bằng vấn đề giáo dục. Bèn khởi thảo  một  bài  tỏ rõ cái tình trạng sự giáo dục ở nước ta, phân  trần  những điều  lợi  hại, những sự khó khăn, và hỏi ý toà Hàn lâm nên giải quyết thế nào cho hợp lẽ. Đại khái nói rằng nước Việt Nam là một nước cổ, vốn đã có một cái văn hoá cũ, nhưng cái văn hoá cũ ấy ngày nay không thích hợp với thời thế nữa, cần phải có cái văn hoá mới đời nay thì mới có thể sinh tồn được trong thế giới bây giờ. Hồi đầu quý chính phủ dạy người An Nam chẳng qua là dạy lấy ít tiếng tây để sai khiến các công việc cho dễ, chưa phải là truyền bá văn minh học thuật gì. Gần đây mới gọi là bắt đầu ban bố một cái học cao hơn trước một chút. Nhưng trong sự truyền bá cái học mới ấy, có nhiều nông nỗi khó khăn, quý chính phủ vẫn chưa giải quyết được ổn thoả. Nếu dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có nền nếp, chưa có lịch sử gì, thì quý quốc cứ việc hoá theo tây cả, dạy cho học chữ tây hết cả, đồng hoá được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt  Nam không phải là một tờ trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy đã có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi. Nếu bây giờ viết đè thêm một chữ mới nữa lên trên, thì e thành giấy lộn mất. Cho nên bây giờ dạy khắp chữ tây cho người An Nam từ tuổi nhỏ đến tuổi lớn, như ở các trường Pháp Việt ngày nay, kết quả chỉ đủ làm cho người An Nam mất tính cách An Nam mà chửa chắc đã hoá được theo tây hẳn, thành ra một giống lửng lơ thật là nguy hiểm. Muốn tránh sự nguy hiểm ấy, chỉ có một cách: là dạy cho trẻ con An Nam bằng tiếng An Nam cho hết bậc tiểu học, lấy cái phổ thông giáo dục bằng quốc văn làm gốc, như thế vừa tiện và vừa mau, vì không mất thì giờ học một thứ tiếng ngoại quốc dở dang không đến nơi và không dùng được việc gì. Học trò đã được bằng tiểu học tốt nghiệp bằng tiếng An Nam rồi, bấy giờ mới kén chọn người nào có sức được học lên các bậc trên nữa, như trung học, đại học, thời cho vào một trường dự bị chỉ chuyên học tiếng Pháp, nhưng học theo cách tấn tốc, như người Pháp học tiếng Anh tiếng Đức, nghĩa là học như học tiếng ngoại quốc vậy. Học thế chỉ vài ba năm có thể thông chữ Pháp đủ theo được các lớp trung học như bây giờ. Như thế mới khỏi được cái nguy hiểm thành một hạng người dở dang, tốt nghiệp ở trường tiểu học ra, chữ tây không đủ dùng được việc gì mà cái phổ thông thường thức học bằng chữ tây cũng còn mập mờ chưa lĩnh hội được hết, còn tiếng của nước nhà thì hầu như quên cả, v.v… – ấy bài diễn thuyết định đại cương như thế, nhưng còn phải phô diễn thế nào cho nghe được.”

Tiếp đến thứ năm ngày 20 tháng 7: “Chiều hôm nay lại ăn cơm ở nhà cụ ông cụ bà V. . Hai cụ vẫn định một buổi mời ông nghị viên Marcel Sembat và phu nhân để giới thiệu cho mình nói chuyện. Nguyên bà nghị viên là  chị em  thân  thích  với  bà  cụ V.,  nên  hai  nhà  thường  đi  lại  với  nhau  thân  lắm.  Ông Sembat thì ai hơi thuộc lịch sử chính trị nước Pháp ngày nay, chắc cũng đã biết tên và biết tiếng cả. Ông là một tay lãnh tụ trong đảng xã hội (…)Hôm nay nhân ông nghị bà nghị sắp đi nghỉ hè ở núi Alpes, hai cụ mời đến ăn cơm tối, để thừa dịp giới thiệu cho mình được biết. (…)Sau bàn đến vấn đề giáo dục ở bên ta. Đề này chính là cái đề mình định diễn ở Hội Hàn lâm nay mai; lại là cái đề vẫn thường thảo luận với cụ V., cụ rất đồng ý với mình: phàm tiểu học cần phải dạy bằng quốc ngữ, không thể dạy bằng ngoại ngữ được, đó là một lẽ tất nhiên. Một đứa con trẻ tiếng nước mình không thuộc thì học tiếng nước nào rồi cũng khó; trước hết phải dùng quốc ngữ để vỡ vạc trí khôn của con trẻ đã, nhiên hậu học tiếng ngoại quốc mới mau hiểu. Ông Sembat thời lại xét cái vấn đề ra một phương diện khác, ra phương diện chính trị. Ông là một nhà chính trị, lại là một nhà chính trị ý kiến rất rộng rãi, vì thuộc về đảng xã hội. Đối với ông thì việc khai thuộc địa là cái sự nghiệp của bọn tư bản, ông không ưa gì bọn tư bản và sẵn lòng đề huề với kẻ lao động, tức là dân thuộc địa. Vậy trong vấn đề này là ông vị dân thuộc địa, – tức là vị người An Nam mình, – mà nói. (…). Người An Nam ở dưới quyền chính trị nước Pháp, muốn vận động về đường chính trị tất phải biết tiếng Pháp, đó là một điều cố nhiên rồi. Nhưng có phải là nhất ban quốc dân An Nam đều có  thể vận  động  về chính  trị được  không?  Chẳng  qua  chỉ là  một  bộ phận  gồm  những người tai mắt, kẻ thức giả trong nước, mới có tư cách vận động mà thôi; bọn đó thời phải biết tiếng Pháp cho thật thông, dẫu tốn công phu đến đâu cũng phải học cho kỳ được. Còn phần nhiều người thì cần nhất bây giờ là học lấy cho mau biết những điều thường thức cần cho người ta ở đời này. (…) Cho nên dù thế nào mặc lòng, số người An Nam học được tiếng Pháp vẫn là số ít,  còn  phần  nhiều  phải  học  bằng  tiếng  nước  nhà  mới  mau  biết  những  điều  thường thức.” Ngày thứ 6, 21 tháng 7: “Hôm nay đã thảo xong bài diễn thuyết ở Hội Hàn lâm. Mai đã phải dùng đến rồi, không kịp mượn người đánh máy. Thôi cứ thế này đem đọc cũng được. Nhưng trước khi ra đọc ở Hội Hàn lâm, phải nên diễn tập trước một lần. Không gì bằng đem đọc thử cho hai cụ nghe, được chăng thế nào hai cụ sẽ bảo. Vả cụ ông đã cho biết rằng có lẽ mai cũng không ra nghe ở Hội Hàn lâm được, vì cụ hiện đương có giấy ứng cử vào chân Hội, không muốn đi lại vội. Như thế thời đọc trước cho cụ nghe, tưởng cũng là một cái nhã  ý đối với cụ. Vậy ngâm nga riêng một mình rồi, liền đem  cả bản thảo lại đường Saint Germain. May hai cụ đều có nhà cả. Tỏ ý đọc trước để hai cụ nghe, hoặc có chỗ nào sai suyễn hay sơ suất xin hai cụ chỉ giáo cho, hai cụ lấy làm cảm động lắm. Để đồng hồ bên cạnh, đọc thong thả rõ ràng, vừa đúng hai mươi phút, thế là hợp với cái thời hạn đã định. Còn nội dung thế nào, lời lẽ có nghe được không, hay là rườm tai khó hiểu? Xin cụ cứ thực tình dạy cho. Hai cụ chỉ chữa cho vài cái “phốt” chữ tây vô ý không biết, còn thời nhất định quyết rằng nghe được, không những nghe được mà lại có cái giọng nhiệt thành bạo dạn, chắc sẽ có ảnh hưởng, không đến nỗi là những lời không ngôn. Hai cụ đã phán đoán như thế, dù là bởi bụng khoan dung muốn khuyến lệ cho kẻ tuổi trẻ lòng thành, hay là vì cách lễ nhượng không muốn kích thích cái thói “tự đắc của con nhà văn” mà chỉ trích cho hết những chỗ khuyết điểm, dù thế nào mặc lòng, mình cũng tạm yên tâm, để ngày mai có thể vững vàng mà ra đối diện với các quan Hàn lâm Đại Pháp. – Hai cụ cũng mừng cho và nói rằng nghe bài diễn thuyết mới biết cái vấn đề giáo dục ở nước Nam phiền phức là dường nào, và lòng nguyện vọng của người Nam cũng chánh đáng là dường nào.”

Thứ bảy, 22 tháng 7.

“Sáng nay không đi chơi đâu, chỉ bữa ăn đi một lát, rồi về nghỉ ngơi để sửa soạn ra Hội Hàn lâm. Phân vân không biết mặc tây phục hay mặc quốc phục. Đã có bộ jaquette, nếu mặc tây thì cũng tùng tiệm được. Nhưng nghĩ lại, gặp những cơ hội như lúc này mà nỡ bỏ quốc phục đeo tây phục, thì cũng tủi cái áo cái khăn anh đồ quá; thôi thì cứ mặc An Nam, chỉ dẫu đi ngoài phố thiên hạ chỉ trỏ nữa cũng chẳng hề gì. Trước hãy đến đón cụ V. để cụ hướng đạo và giới thiệu cho các ông phần việc, kẻo lạ lùng không biết đường nào mà dò. Nhà Hội Hàn lâm này cũng là một cái lâu đài cổ ở thành Paris, mặt tiền trông ra sông Seine, trước có cái cầu gọi là “Cầu Văn nghệ” (Pont des Arts). Phong cảnh có vẻ cổ thời. (…)Vào hỏi ở phòng thư ký, rồi có người đưa đến phòng hội đồng. Ban Luân lý Chính trị thường họp hội đồng cùng một phòng với ban Văn học duy khác ngày mà thôi: phòng này gọi là phòng Tự điển, vì ban Văn học thường họp để làm Tự điển ở đấy. (…)Mình vẫn tưởng rằng hôm nay chẳng được đông lắm, nhưng cũng được vài ba chục ngài (toàn ban chỉ có bốn chục ngài cả thảy). Không ngờ lác đác chỉ có vài ba cụ nữa đến, thế mà thôi, cả thảy được mươi mười hai người, kể cả các nhà báo. Lúc bấy giờ cũng hơi lấy làm thất vọng. Cái thói con nhà văn vẫn hay tự đắc: có lẽ nào các cụ Hàn được tin ông P. Q. diễn thuyết mà lại không hăm hở kéo nhau đến nghe cho thật đông! Đáng lẽ cả bốn chục ngài phải có mặt ở đấy, không thiếu một ngài nào mới phải! Sau hỏi ra mới biết rằng những khi hội đồng thường chỉ có thế thôi, không mấy khi được đến mười lăm ngài có mặt. Vả lại nay đã đến đầu hè, phần nhiều các ngài đi ra bể lên núi nghỉ mát cả, đến được thế này đã là đông rồi đó. Khi đã ngồi đâu vào đấy, thấy một ông cụ đầu râu bạc phơ, lưng khom khom chống cái ô đi vào; các cụ đều đứng lên chào một cách kính trọng lắm. Cụ mới vào đó chính là cụ Alexandre Ribot, nguyên thủ tướng Đại Pháp, hiện có chân ban Chính trị và ban Văn học Hội Hàn lâm. Năm nay tuổi đã cao lắm, – nghe đâu ngoài 80, – thường đau yếu, ít khi đến họp hội đồng được, hôm nay thấy đến, cử ban đều lấy làm mừng rỡ lắm. Cụ ngồi vào ghế, rồi ngài ban trưởng khai hội đồng. Chương trình kỳ hội đồng hôm nay có hai bài “thông cảo” (communications), tức là bài diễn thuyết cho các cụ Hàn nghe, rồi xét có nên thì sẽ đăng vào sách “Biên tập” của Hội Hàn lâm: một bài của ông giáo trường Đại học thành Rennes có chân thông tín của Hội, một bài của mình (…) Đoạn rồi đến lượt mình; ai đọc cứ ngồi chỗ nấy, không phải đứng dậy. Mình cố đọc cho to tát dõng dạc để các cụ nghe cho dễ; xem dáng các cụ cũng chú ý nghe. Đọc hết bài dừng lại thì thấy các cụ đều vỗ tay một hồi. Có ý nhận lúc ông giáo Đại học đọc lúc nãy thì không có vỗ tay. Sau về nhà nói chuyện với cụ V. mới biết rằng lệ thường ở Hội Hàn lâm nghe đọc những bài “thông cảo” không có vỗ tay bao giờ, hôm nay các cụ đặc cách vỗ như thế là có ý biệt đãi vậy. Trong bài “thông cảo” của mình có kể rõ về cái vấn đề giáo dục ở nước ta khó khăn là dường nào và hỏi ý các ngài Hàn lâm nên giải quyết thế nào (…) Ông trưởng ban nói trong bài diễn thuyết sở dĩ dẫn chứng lời của một vị Hàn lâm như thế thật là đủ tỏ rằng ý kiến của Hàn lâm cũng không khác gì  ý kiến của diễn giả. Diễn giả sợ cách giáo dục của chính phủ Pháp ở nước Nam không phải đường, kết quả đến làm mất hết cái cốt cách tinh thần của dân tộc An Nam, làm “mất giống” An Nam đi. Cái hiểm tượng đó cũng đáng lo thật; diễn giả muốn hỏi toà Hàn lâm nên làm thế nào cho tránh khỏi. Vấn đề phiền phức, không thể trong một buổi thảo luận mà giải quyết ngay. Nhưng toà Hàn lâm xin chú ý; vấn đề đã trình bày ra như thế, hoặc có ngài nào trong ban muốn nghiên cứu, sẽ có thư từ bàn bạc với diễn giả, và thử nghĩ xem có cách nào giải quyết được ổn thoả cả mọi đường; nếu quyết định được một cái chương trình thoả đáng, mà cả ban thuận nhận thời lâm thời Hội Hàn lâm sẽ sẵn lòng vận động với chính phủ Đại Pháp cho có thể thi hành được. Hiện nay hẵng xin cám ơn diễn giả đã có lòng tin cậy toà Hàn lâm mà đem một vấn đề quan trọng như thế trình bày cho biết một cách rõ ràng mà thâm thiết như vậy. – Nghe diễn thuyết xong thì các người ngoài lùi về và hội đồng vào họp trong buồng trong, để bàn việc kín.

“Ở Hội Hàn lâm ra, về thẳng đường Saint Germain để nói chuyện cho hai cụ biết. Hai cụ lấy làm mừng lắm. Lại nghe nói khi đọc xong cử tọa có vỗ tay, hai cụ lấy làm lạ, nói xưa nay ít khi như thế, lần này thế là các cụ Hàn có ý biệt đãi khách phương xa lắm đó. Hai cụ lại nói rằng các ngài Hàn lâm thường không hay đến hội đồng đông bao giờ, ngay như ở ban Văn học phải làm Tự điển mà mỗi lần cũng chỉ mươi lăm vị là cùng. Song các bài “thông cảo” đều có đăng vào sách “Biên tập”, tức cũng như quyển tạp chí của Hội, như thế thì người không đến nghe rồi cũng được đọc, tất có ảnh hưởng to. Cụ ông hứa rằng nếu không ở Paris được lâu thì khi nào in bài vào sách “Biên tập” của Hàn lâm, cụ sẽ thương  thuyết  với  nhà  in  lấy  riêng  ra  mấy  trăm  bản,  rồi  gửi  sang  An  Nam  cho.”

Thì ra việc đọc diễn văn tại Viện Hàn lâm Pháp là hoàn toàn do sáng kiến của riêng Phạm Quỳnh, không “ thỉnh thị” ý kiến của cấp trên nào. Chỉ bằng vào tài năng và lòng yêu nước nồng nàn, với thái độ chân thành khiêm nhường, có văn hóa cao của mình, ông đã thuyết phục được các bạn bè Pháp, đứng đầu là cụ V., một người cha của một bạn trẻ Pháp của Phạm Quỳnh.

Càng tìm hiểu về nhà văn hóa Phạm Quỳnh, ta càng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: Ông quả là một thiên tài, một người yêu nước thương dân đến tận tâm can.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2009.

D.T.

* Những đoạn trích trong bài này, chúng tôi trích từ Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh in trong Hành trình nhật ký do Nhà xuất bản Ý Việt (91330-Yerres-France), xuất bản năm 1997 tại Pháp.

Tháng Sáu 21, 2023

Vì sao Phạm Khuê viết được ngay bức thư gửi cụ Hồ?

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:12 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 1 tháng 7 năm 2023.

VÌ SAO PHẠM KHUÊ VIẾT ĐƯỢC NGAY

BỨC THƯ GỬI CỤ HỒ?

Blog PhamTon

Sau khi chúng tôi đưa lên blog bài của Dã Thảo Ngay trước ngày Quốc khánh đầu tiên, Hồ Chủ tịch đã tiếp hai con gái học giả Phạm Quỳnh, trong đó có chi tiết: “Bức thư mà hai bà đưa cho Hồ Chủ tịch là do Phạm Khuê (…) chấp bút viết theo ý của ba chị em, sau khi nghe tin cha bị bắt ở Huế”, nhiều bạn đọc cả trong và ngoài nước đã hỏi vì sao Phạm Khuê 20 tuổi, sinh viên trường Y ở Hà Nội lại có thể biết rõ và viết được ngay bức thư gửi Hồ Chủ tịch nói về việc cha bị bắt ở Huế, để hai chị kịp đưa lên Hồ Chủ tịch nếu được Người nhận tiếp. Vì Phạm Quỳnh bị bắt trưa 23/8 mà ngày hai bà được gặp Cụ Hồ lại là ngày 31/8/1945, chỉ vẻn vẹn một tuần. Mà còn phải viết trước, vì chưa biết khi nào được tiếp. Thời gian gấp gáp như vậy, trong khi hồi đó, giao thông liên lạc trong nước ta còn rất lạc hậu, sao có thể nhanh như vậy được. Tóm lại, sự thật có phải như đã viết không?…

Chúng tôi cảm động trước sự quan tâm của bạn đọc đến mức chú ý cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong các bài viết trên blog. Chính vì thế, sau khi được hỏi, chúng tôi bắt tay ngay vào việc rà soát lại các tư liệu gốc (đặc biệt là tư liệu 10 trang viết tay của Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 gửi Tuyên huấn Thừa Thiên Huế và bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nhà của Phạm Tôn đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên –Huế số 3 (56). 2006), gặp gỡ trực tiếp hoặc qua điện thoại với những nhân chứng hoặc người biết rõ sự việc Phạm Quỳnh bị bắt trưa 23/8/1945. Đến nay, đã có thể trình bày vắn tắt với các bạn như sau.

Năm 1945, gia đình Phạm Quỳnh vẫn ở Huế như từ năm 1932 khi ông vào Huế làm quan. Riêng Phạm Khuê đang học đại học Y khoa Hà Nội cho nên ra sống ở Hà Nội tại nhà số 5 phố Hàng Da với gia đình bà chị cả Phạm Thị Giá cùng chồng là giáo sư Tôn Thất Bình, phó hiệu trưởng Trường Thăng Long. Nhưng khi Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ thì Phạm Khuê lại ở Huế vì đang được nghỉ hè. Và đúng ngày 23/8 định mệnh ấy, anh có mặt tại Huế. Nhưng khi cha bị bắt thì …  lại không có mặt ở nhà! Vì từ sáng sớm hôm ấy, nghe có tin “cách mạng sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Huế, mời đông đảo đồng bào tham dự”, thì Phạm Quỳnh đã bảo các con trai lớn và người giúp việc trẻ trong nhà chuẩn bị tham gia, lại dặn mua sẵn cờ đỏ sao vàng nhỏ cầm khi đi mít tinh. Mấy hôm trước, biết tin Cách Mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội, Phạm Quỳnh đã bảo người nhà, vợ và các con gái lấy hết vải đỏ, vải vàng nhà hiện có, hạ cả các màn bàn thờ hai màu đó để may gấp cờ đỏ sao vàng treo khắp mặt tiền nhà. Ông bảo “Nước ta độc lập rồi, thế là việc đáng mừng nhất”. Và chiều hôm ấy, theo lời cha, Phạm Khuê, Phạm Tuyên và đám người nhà trai trẻ đều cầm cờ đỏ sao vàng đến sân vận động dự cuộc mít tinh do Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh tổ chức. Ở nhà, chỉ còn vợ chồng Phạm Quỳnh, vợ chồng cô Phạm Thị Ngoạn, cô Phạm Thị Hoàn và mấy em gái. Phạm Tuân, con trai út của Phạm Quỳnh và mấy đứa cháu nội, ngoại thì chơi tha thẩn ở sân nhà. Khi Phạm Quỳnh bị bắt, các con ông chứng kiến chỉ có hai cô Ngoạn, Hoàn và em trai Phạm Tuân chín tuổi. Khám xét nhà, ngoài một ít sách vở, còn mấy khẩu súng săn của Phạm Khuê, cũng bị tịch thu nốt.

Phạm Khuê vốn bản tính hiền lành, nhưng lại thích săn bắn và bắn khá giỏi. Lần bọn con, cháu trai và người nhà kéo nhau đi săn gần Huế, Phạm Khuê đã bắn được một con lợn lòi lớn, nặng đến nỗi khi khiêng lên đo để chở về thì đò suýt đắm, mọi người đều phải lên bờ đi bộ, chỉ Phạm Khuê và người lái được ngồi đò.

Chiều hôm ấy, Phạm Khuê dự mít tinh và đi tuần hành về đến nhà, tay vẫn còn cầm cờ đỏ sao vàng thì chị và các em cho biết cha và anh rể là chồng bà Ngoạn đã bị bắt. “Người tính hiền lành, thường hay cục”, Phạm Khuê chạy vội vào nhà, đến ngay tủ súng săn của mình, thấy tủ bị niêm phong, thì đấm vỡ kính, chảy cả máu tay. Nhưng tủ trống rỗng … Sau này, vào những năm 90 thế kỷ trước, em út Phạm Tuân từ Mỹ về thăm có nhắc lại chuyện này trước mặt cả gia đình Phạm Khuê. Ông mỉm cười, lắc đầu rồi nói: “Nếu lúc ấy còn súng thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra và cuộc đời anh sẽ ra sao…” Bây giờ, ông đã là giáo sư đầu ngành lão học, viên trưởng Viện Lão khoa, chủ tịch Hội người cao tuổi, đại biểu Quốc hội, Nhà giáo Nhân dân và là Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã mấy mươi năm rồi.

Sau đó, Phạm Khuê lên ngay tàu hỏa ra Hà Nội, báo tin chẳng lành cho gia đình hai chị. Cả nhà cùng bàn để hai chị lớn là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức (là vợ Giáo sư Đặng Vũ Hỷ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I) xin lên gặp Cụ Hồ, mang theo thư do Phạm Khuê chấp bút thảo, theo ý kiến của cả nhà.

Ton That Binh Pham Thi Gia Pham Khue Dang Vu Hy Pham Thi Thuc

Chị cả Phạm Thị Giá, tìm gặp ông Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, em ruột ông Phan Thanh là người quen biết đã lâu, cùng làm việc ở Trường Thăng Long với chồng bà. Từ đó dẫn đến buổi hai bà được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ trưa ngày 31/8/1945, ngay sau khi Người duyệt lại lần cuối bản thảo Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ đọc ngày 2/9/1945, ngày Quốc khánh đầu tiên của nước ta. Người nói: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sau này sẽ được lịch sử đánh giá lại.”

Chính Phạm Khuê từ Huế ra sau khi đã biết rất rõ việc cha bị bắt như thế nào cho nên anh viết ngay được chính xác về sự việc này để hai chị kịp trình lên Cụ Hồ.

Sau thời gian thương thảo với phía Hoa Kỳ về hiệp định hòa bình Việt Nam ở Paris, có lần ông Lê Đức Thọ, cố vấn đoàn đàm phán của ta hồi đó đã chọn Giáo sư Phạm Khuê đi cùng sang Paris. Chính ông Lê Đức Thọ đã nói Phạm Khuê có người nhà ở Paris thì nên đi thăm. Và đã tạo điều kiện cho Phạm Khuê gặp chị gái là Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, tác giả luận văn Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong trình Đại học Sorbonne và em gái Phạm Thị Hoàn, cùng chồng là nhạc sĩ tài hoa Lương Ngọc Châu.

Sự thật là như vậy. Giản dị và thật, đúng như… sự thật vậy.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/9/2010.

B.P.T.

.

Cậu Khuê tôi

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:08 sáng

            Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 1 tháng 7 năm 2023.

CẬU KHUÊ TÔI.

Phạm Tôn-Tôn Thất Thành

Cậu là em mẹ tôi, sinh năm 1925, kém mẹ tôi 12 tuổi hơn tôi 15 tuổi.

Bài này không viết về những chuyện người khác đã viết về giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, đại biểu quốc hội Phạm Khuê, kể cả chuyện sau Hiệp định Paris 1973 cậu đi Paris cùng ông Lê Đức Thọ và được ông này cho xe riêng đưa đi thăm chị là bà Phạm Thị Ngoạn và em là bà Phạm Thị Hoàn cùng ở Paris. Bài chỉ viết những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi biết và tôi cảm về cậu tôi, nên mới có nhan đề là Cậu Khuê tôi.

Khi vào đại học thì cậu thi vào trường thuốc, tức đại học y, nên phải ra Hà Nội học, và sống ở nhà cha mẹ tôi. Cậu có một phòng riêng yên tĩnh ở cuối gác hai, cách xa đường ồn ào. Mở cửa vào phòng là thấy ngay góc trái dưới ánh đèn xanh lá cây có chụp đèn trắng là một bộ xương người lớn, trắng hếu, treo lủng lẳng dọc theo góc tường. Cậu về nhà là vào ngay phòng riêng học và làm thơ. Mẹ tôi kể chính cậu viết hai câu thơ tả tôi hồi sơ sinh “Mắt đen lay láy đầu xiêu, gục đi lắc lại đáng yêu dường nào”. Trong khi ông bà ngoại và các cô cậu khác vẫn ở trong Huế.

Nhưng đến năm 1945 ấy, cậu về Huế nghỉ hè như mọi năm thì ngày 23/8 cậu cùng cậu Phạm Tuyên và một số thanh niên giúp việc trong nhà theo lời ông bảo tham gia biểu tình và dự mít tinh lớn ở sân vận động Huế. Khi về thì biết tin ông ngoại đã bị bắt, cậu vội lại gần tủ súng săn, thấy tủ niêm phong, bèn đấm vỡ cửa kính, máu đầy tay nhưng súng đã bị tịch thu hết. Cậu bàn với anh là Phạm Bích, chị là bà Phạm Thị Ngoạn và em gái là Phạm Thị Hoàn rồi thu xếp hành lý vội vàng ra tàu hỏa đi ngay Hà Nội. Đến Hà Nội cậu kể lại mọi chuyện xảy ra với ông ngoại cho bố mẹ tôi, vợ chồng dì tôi là giáo sư Tôn Thất Bình và bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cả nhà quyết định cậu sẽ chấp bút viết một bức thư như anh chị đã bàn để mẹ tôi là bà Phạm Thị Giá và dì tôi là Phạm Thị Thức xin gặp Cụ Hồ mà trình bức thư. Bố tôi là phó hiệu trưởng của Trường Thăng Long nhờ ông Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, (em ruột ông Phan Thanh làm cùng trường), hồi ấy làm việc ở văn phòng Cụ Hồ xin cho gặp. Rồi ngay trước ngày quốc khánh đầu tiên của nước ta, ngày 31/8/1945 hai chị em đã được Cụ tiếp và nhận bức thư do cậu Khuê chấp bút.

Nhưng rồi, ông tôi vẫn bị sát hại, bố tôi là con rể cũng bị đưa đi an trí tối 7/9/1945. Bà ngoại và các cô cậu ở Huế được đưa ra Hà Nội an toàn và không gặp khó khăn, trở ngại gì do ông Hoàng Hữu Nam đã giữ lời hứa với mẹ tôi là “” vào các nơi suốt dọc đường gia đình ra Hà Nội. Nhà đông đến hơn 20 người. Mẹ tôi lấy tất cả số tiền gia đình dành dụm bấy lâu, mở cả các các hộp gỗ bố tôi hằng tháng dành tiền cho từng con sau này ăn học, bán bớt một số đồ dùng và còn lấy thuốc tây ở hiệu thuốc của bà em là Phạm Thị Hảo đi bỏ mối bán lẻ. Cậu Khuê tôi ngày đi học nhưng tối tối lại ra rạp chiếu phim Olympia đối diện với chợ Hàng Da chơi đàn ác coóc cùng một số bạn sinh viên làm chương trình ca nhạc ngắn trước giờ chiếu phim.

Rồi cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến. Dì Thức tôi đón bà ngoại và hai con út của bà về quê chồng là làng Hành Thiện Nam Định từ cuối năm trước. Còn lại khoảng 20 người già trẻ thì theo mẹ tôi về làng Tràng Cát thuộc khu Ba La Bông Đỏ huyện Thanh Oai, Hà Đông quê ông họa sĩ Nguyễn Cát Tường, dạy vẽ ở trường bố tôi.

Về làng này được độ một tuần thì cánh đàn ông sốt ruột, bàn nhau về Hà Nội nghe ngóng xem sao, và lấy thêm ít đồ dùng. Đoàn đi gồm họa sĩ Nguyễn Cát Tường, bác cả Phạm Giao, cậu Phạm Khuê, chú Tôn Thất Định đem theo lão bộc Nguyễn Văn Hạt giúp việc vặt. Định sáng đi tối về.  Chiều hôm đó, cậu Khuê và ông Hạt về. Ông Hạt hớt hải kể sáng hôm ấy, cả nhóm ra phố, thì nhà bên có một người đàn ông chạy ra hốt hoảng kêu to “Pháp đánh đến Hàng Giấy rồi”. Tự vệ khu phố bắt ngay người đó và nói là tay sai địch phao đồn tin nhảm làm đồng bào nao núng. anh ong Khue tang Than Trong NinhTất cả những người quanh đó đều bị bắt, trừ người già, trẻ em. Cậu Khuê tôi tách nhóm đi tìm một người bạn thân học cùng lớp là Thân Trọng Ninh, rủ bạn cùng đi tản cư với mình. Nhưng đến giờ hẹn với nhóm vẫn không thấy bạn đến. Về nhà thì chỉ gặp cụ Hạt, nên cùng nhau về Tràng Cát. Từ đó về sau, gia đình không nhận được tin tức gì về các ông Phạm Giao, trưởng nam học giả Phạm Quỳnh, họa sĩ Nguyễn Cát Tường (tức Lemur), sinh viên nha khoa Tôn Thất Định, em trai giáo sư Tôn Thất Bình. Gia đình ông Phạm Giao lấy ngày rằm tháng bảy hằng năm làm ngày giỗ ông. Nhà tôi cứ Tết Nguyên Đán là mời cả bố tôi và chú Định về cùng tổ tiên, không có ngày giỗ riêng. Giáo sư nhà giáo nhân dân, bác sĩ Phạm Khuê mất năm 2003. Còn bạn thân của ông là thầy Thân Trọng Ninh nhà giáo ưu tú về hưu nay sống ở Huế. Năm giỗ học giả Phạm Quỳnh lần thứ 70 và lễ cầu siêu tổ chức ở chùa Vạn Phước cùng khu lăng mộ học giả Phạm Quỳnh ông Ninh đã đến dự, mang theo cả bức ảnh người bạn thân Phạm Khuê tặng ông năm xưa.

Về lại làng Tràng Cát cậu Khuê sinh viên y khoa 21 tuổi sống trong một tập thể hơn 20 người gồm cụ Hạt, u Nấm, mẹ tôi và 6 con, con út mới hơn một tuổi, còn ăn nước cháo; bác Phương vợ hai bác cả Giao và ba con; các em ông Khuê là cô Hoàn, cô Giễm, cô Lệ và cậu Tuyên 16 tuổi.

Sống như nhân dân trong xóm, cả nhà tôi ra rặng vải quét lá bằng cành gai đem về đun bếp. Ban đầu còn mua trai, hến của dân làng, sau cũng tự mò đáy sông bắt lấy mỗi khi đi tắm trong ngày. Tắm mà không hề có xà phòng. Dần dà cả nhà bắt đầu đau mắt như cả làng. Cậu Khuê bầy cách pha nước muối lọc để rửa mắt.

Trong khi tôi theo cậu Tuyên đi ven sông, thấy bên kia sông có cây gạo hoa đỏ thì lội sông đến tận nơi xem, thì cậu Khuê có anh Đại tôi đi theo lại tìm đất sét, viên thành những viên bi rồi vùi xuống cát nóng cho khô lại làm đạn súng cao su bắn chim; thiết thực hơn. Chúng tôi chỉ cốt tìm cái đẹp… Cậu Khuê hay đi thăm các gia đình trong làng, thấy nhiều bà con chưa biết chữ, cậu bàn với dân làng mở lớp xóa mù chữ, mỗi tuần dạy ba buổi tối. Mẹ tôi thương em trai, cứ mỗi tối cậu dạy học về là có một li nước chanh và đĩa rau xà lách, nằm giữa vòng cà chua đỏ, trên rau là một quả trứng luộc cắt làm sáu miếng. Rồi cậu lân la đến nhà một ông lão mù, gọi là cụ Lúa vì là cha chị Lúa. Chị Lúa, gầy, xanh, có đôi mắt rất đẹp. Cụ bằng lòng cho cậu hằng ngày mang sách vở đến nhà học ở một góc nhà yên tĩnh, sạch sẽ, cạnh cửa sổ. Hằng ngày cậu đều học ở đấy, đến bữa mới về ăn cơm; tối nào không dạy học cũng đều học một mình ở nhà đó. Chị Lúa đi làm suốt ngày, làng đó trồng màu, quanh năm rau củ quả, chị không khi nào hết việc.

Tôi ngủ cùng giường với mẹ và hai em nhỏ, nên thường nghe được chuyện cậu vào màn, to nhỏ bàn việc gia đình với mẹ tôi, lo cho cuộc sống của cả tập thể lớn này.

Tết năm 1947, nhà tôi cũng luộc bánh chưng, trẻ con cũng có bánh chưng nhỏ ăn ngay đêm giao thừa.

Được vài tháng thì có cụ Nho người làng Hành Thiện được bác sĩ Đặng Vũ Hỷ nhờ đi tìm gia đình tôi. Cụ đón một nhóm đi trước gồm toàn con gái, cô Hoàn, cô Giễm và chị An tôi 15 tuổi, cốt tránh Tây đi càn mò gái. Cụ lại về Tràng Cát đón nhóm còn lại. Nhà tôi thuê một chiếc thuyền gỗ, cả nhà ra đi, bịn rịn với bà con đùm bọc nhau những ngày gian khó. Đến chỗ thuyền rẽ ra sông lớn, tôi còn nhìn thấy bóng một số bà con và trẻ em chạy theo vẫy tay, người chạy nhanh nhất và cũng cao gầy nhất đứng đầu mỏm đất là chị Lúa.

Sau này, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, cậu tôi từ Thanh Hóa chuyển ra Hà Nội, cậu đã cùng anh Đại và tôi về thăm lại làng Tràng Cát xưa. Các đường làng rộng ra và như ngắn lại, nhà ngói cũng nhiều, hỏi thăm chị Lúa thì bà con cho biết chị nay là chủ tịch xã. Trước mặt ba cậu cháu tôi là bà chủ tịch xã cao lớn, tươi tỉnh, da rám nắng, nhưng đôi mắt vẫn đẹp chan chứa tình người.

Thuyền chúng tôi đi được vài ngày thì đến chỗ nhập vào sông lớn, đó là vùng Lạc Quần, Nho Quan. Nhưng không đi tiếp được vì bị bèo ken dày đặc. Cậu Tuyên và anh Đại bắt chước mọi người thuyền khác ra khỏi thuyền đi bộ trên bèo; anh tôi nhẹ, còn chạy được. Sau đó cậu về kể là bèo đóng chặt có đến hơn một kilômét. Mãi sau này, gặp một cán bộ cách mạng lão thành là cụ Nguyễn Hữu Chương, Cu Chuongtôi mới biết hồi ấy các vị lãnh đạo vùng ấy định dùng kế đóng cọc như ở sông Bạch Đằng năm xưa để chặn quân Pháp. Cậu Khuê theo cụ Nho đi gần hết chỗ đóng bèo thì gặp một thương gia cùng làng Hành Thiện, đi thuyền buôn lớn, lại sắp ra khỏi vùng đóng bèo. Cụ Nho và cậu Khuê nói họ rõ tình cảnh của gia đình, họ liền bằng long chở hết cả nhà. Thế là được đi  thuyền lớn, rộng rãi, ăn cơm canh nóng với cá chim khô rán suốt cho đến làng Vạn Lộc, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Cả nhà được ở nhà cụ Chánh Đoán hai tầng do thân phụ bác sĩ Hỷ thuê cả tầng gác và một phòng lớn tầng dưới, cùng một căn nhà bếp riêng. Cậu Khuê nhờ bác sĩ Hỷ mà tìm được trường y và tiếp tục việc học. Anh tôi và các cô cậu đã học tiểu học thì sang Trà Bắc cách nhà độ ba bốn cây số học tiếp. Tôi được cậu Tuyên dạy, đã biết đánh vần. Còn cậu thì học chữ Nho cùng con, cháu cụ Chánh Đoán do cụ dạy tại nhà và đọc sách Anh văn, Pháp văn để ôn luyện. Thì giờ còn lại cậu đặt bài hát, dựng kịch cho các cháu. Năm 1948, cậu Tuyên tìm được trường luyện thi tú tài, đi Yên Mô Ninh Bình học, thi 300 người, chỉ lấy được có ba người, cậu đỗ. Tôi ở nhà, không có ai dậy, bèn tìm sách vở cậu Khuê để lại, đọc thấy chữ triệu chứng rất nhiều, lại có các hình vẽ vòng tròn, trong có nhiều hình cong queo kỳ lạ. Tôi ở nhà ấy, có nuôi tằm, hay thấy họ cho con ngài vào lòng bát, úp lên tờ giấy, sau ngài đẻ rất nhiều tứng thành một hình tròn to bằng miệng bát, nên tôi nghĩ triệu chứng là như thế. Anh tôi còn bảo triệu rất nhiều, không thể đếm được. Hóa ra cậu vẽ vi trùng nhìn qua kính hiển vi!

Cuối năm 1949, gia đình tôi theo bà ngoại về lại Hà Nội do cậu Bích nhờ người đón. Sau năm 1954, mới gặp lại hai cậu. Cậu Khuê bấy giờ là đại úy bác sĩ quân y phụ trách K32 ở Thanh Hóa. Cậu lấy vợ ngày 2/11 năm 1953. Đám cưới tổ chức dưới mấy cái dù lấy được của Pháp và đèn măng sông. Lần cậu về họp tại Hà Nội có đưa một số bạn cùng bệnh viện đến thăm nhà tôi. Cậu giới thiệu bạn bè xong thì đưa ra trước mặt mẹ tôi một cô bộ đội nhỏ nhắn, xanh xao, nhưng má cũng ửng hồng, và nói vui “Đây là vợ em, tên là An, tuy xanh vỏ nhưng đỏ lòng”. Cả nhà đều cười vui. Đến năm nay, 2018, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, tôi vẫn nhớ như in cảnh gặp mặt lần đầu tiên ấy.

Rồi cậu được chuyển về làm việc ở bệnh viện Bạch Mai. Mẹ tôi mừng lắm, Nhà tôi hồi ấy ở 16 Hàng Da, có thuê hai buồng trên gác. Nhà dưới là hợp tác xã may, là nơi mẹ tôi làm việc. Hồi ấy nhà tôi sống chật vật, do mẹ tôi quyết không để các con phải bỏ học. Mẹ bàn với cậu là gia đình tôi ở phòng trông ra đường. Gia đình cậu chỉ có hai người lớn, hai trẻ con thì ở phòng trong, ngay chỗ cầu thang lên. Tiện đi về, lại chị em cậu cháu hằng ngày được thấy mặt nhau. Tháng nào cậu cũng đưa tiền nhà, nhưng chưa thấy dọn đến ở. Sau mới biết là bên nhà vợ không đồng ý và đã thu xếp cho gia đình cậu ở một chỗ khá chật chội cùng nhà ông anh vợ làm cán bộ công đoàn ở đường Triệu Việt Vương. Lúc ấy, mẹ tôi hiều, đành nhường cho người khác thuê phòng ấy. Tôi có đến Triệu Việt Vương thăm mợ và hai em Hùng, Thắng. Cũng gặp ông cán bộ công đoàn gầy gò vì bị lao và chột mắt.

Từ ngày mẹ tôi nhường lại tiêu chuẩn thuê phòng định dành cho cậu Khuê, thì hình như cậu năng ghé nhà tôi hơn. Khi thì cậu cho quần áo quân phục mới, cũng có cái cũ, bạc nhưng được giặt sạch sẽ, gấp gọn gàng, hoặc giày bộ đội cũ, nhưng sạch, có lần cho hẳn hai đôi giày da đen cao cổ, của sĩ quan. Chắc cậu thấy anh tôi và tôi 19, 16 tuổi rồi mà vẫn mặc những quần áo mẹ may đã cũ, đi dép lốp… Có khi cậu ghé nhà biếu mẹ tôi chai vitamin B1. Thường cậu đến nhà tôi trước khi đến bệnh viện. Một hôm tôi về nhà vào bữa ăn trưa thì thấy cậu đang trò chuyện với mẹ tôi. Cậu vốn nặng tai từ nhỏ, nên nói nhỏ người ngoài cũng nghe thấy. Tôi chào cậu, rồi đi ra bếp, qua cửa mở tôi nghe được câu nói này của cậu: “Nói em thì nói sao cũng được nhưng nói đụng đến Thầy là không được”. Rồi mẹ tôi bảo dọn cơm ra, hôm nay cậu ăn cơm nhà mình. Mấy hôm liền cậu sống với gia đình tôi, ngủ tạm trên cái giường xếp Liên Xô: sáng lại dậy sớm đến bệnh viện. Một chiều tôi về sớm, thì gặp mợ An đang khóc với mẹ tôi, xin mẹ tôi bảo cậu về nhà, vợ con mong lắm. Tối hôm ấy, cơm xong là cậu về nhà. Vừa dịp ấy, bệnh viện bố trí cho gia đình cậu một căn hộ ở khu tập thể Kim Liên.

Pham Khue va Pham Thi Gia

Năm 1995, vợ chồng cậu và con trai út là Phạm Thắng đi Bạc Liêu thăm mẹ tôi, có cho tôi đi cùng. Cậu ở chơi đến năm ngày, mợ thì trò chuyện lo cơm nước với mẹ tôi, con trai được các cháu rủ đi xe máy thăm các chùa Khơ me quanh vùng. Cậu thường trò chuyện với tôi, có khi phải lên lầu mái tôn rất nóng vào buổi trưa, chiều, cốt để thoải mái nói được điều mình nghĩ; những ý quan trọng đều nói bằng tiếng Pháp. Tôi biết, cậu không khi nào không nghĩ đến Ông. Cậu nói được phong nhà giáo nhân dân, cũng chẳng làm gì, chỉ có ích khi người ta nhìn vào đó biết được công ơn dưỡng dục của người đã đào tạo nên nhà giáo nhân dân ấy mà thôi. Và cậu bùi ngùi khi nói cháu thân với cậu Tuyên thì bảo cậu ấy phải chú ý làm được gì thì làm, nhưng đừng để tệ hơn. Vì hồi ấy, sau năm 1986, nước ta có nhiều đổi mới trong cách đánh giá lại những sự kiện và nhân vật từng bị bùi dập xưa kia, nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu hay tìm đến nhạc sĩ Phạm Tuyên để lấy tư liệu mới cho bài của mình. Tôi chú ý lắng nghe cậu nói rất nhiều, dường như lâu nay cậu không có ai gần gụi, tin cậy ở bên.

Thật ra, tôi nghĩ cậu đạt lý nhưng chưa thật thấu tình.

Năm 2003, cậu tôi mất. Đúng năm kỷ niệm Đám cưới vàng 50 năm. Mợ cũng ngày càng héo hon. Năm 2006, mợ gửi cho vợ chồng tôi tập thơ Vầng trăng khuyết viết đến 43 bài thơ, dài có, ngắn có nhưng đều viết về cậu tôi, với nỗi nhớ khôn nguôi, kèm niềm tiếc nuối vô hạn.

Bài số 10 viết:

            Hoa Quỳnh nở rộ ba bôngVang Trang Khuyet (Do Thi An).png

            Anh ngồi ngắm cảnh mà trông buồn phiền

            Ưu tư lắng đọng triền miên

            Nước non, non nước ước mong điều gì

Bài số 43 có những câu sau:

Ai gây khó dễ nhiều phen

Trời thương nên vẫn nên duyên vợ chông

Thủy chung cho đến tận cùng

Cậu Khuê tôi đã sống trọn một cuộc đời vì mọi người. Cái đau, nỗi buồn chỉ giữ trong lòng, không muốn làm phiền, làm bận đến ai. Cả đời cậu không hút lấy một điếu thuốc lá. Vậy mà lại bị ung thư phổi. Ra đi ngay sau khi động dao kéo. Chỉ vì chịu quá nhiều khói thuốc lá của những người xung quanh.

Cậu mất đi không được thấy Khu tưởng niệm nhà văn hóa Phạm Quỳnh tại quê cha Hải Dương xây dựng xong năm 2014. Cũng không được thấy Khu lăng mộ nhà văn hóa Phạm Quỳnh tại Huế, nơi nhà văn hóa đã sống 13 năm cuối đời và gửi di thể lại đây. Tượng Phạm Quỳnh đã được dựng từ 2016. Và tiếc nhất là cậu không được dự Lễ Vinh danh thân phụ là Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại tại thành phố Hồ Chí Minh, do Quỹ Phan Châu Trinh tổ chức năm 2018.

Sài Gòn ngày 30/8/2018

P.T.

Tháng Tư 24, 2023

Có hay không vụ “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm” – Dã Thảo

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 3:00 chiều

Blog  PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 1 tháng 5 năm 2023.

Có hay không vụ

“PHẠM QUỲNH HẤT CẲNG NGÔ ĐÌNH DIỆM”

Dã Thảo

Lời dẫn của Phạm Tôn: Vụ Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm xảy ra từ 1932, xưa lắm rồi. Sau khi ra đời được ít lâu (22/2/2009), ngày 22/12/2009 Blog PhamTon chúng tôi đã có bài của Dã Thảo nói rõ chuyện này. Rằng Ngô Đình Diệm làm Thượng thư Bộ Lại có ba tháng rồi từ quan. Chức ấy được chuyển giao cho  Thái Văn Toản. Đến khi Thái Văn Toản về hưu năm 1942, Phạm Quỳnh mới từ Bộ Quốc Dân Giáo Dục chuyển qua Bộ Lại.

Mà từ Hất cẳng có nghĩa là: Tìm cách bẩy kẻ nào đi để chiếm lấy chỗ cho mình, (trang 819 sách Từ và Ngữ,  NXB Tổng hợp TPHCM, 2015 của Giáo sư  Nguyễn Lân).

Sao lại có chuyện hất cẳng…kéo dài đến…mười năm!

Những tưởng mọi chuyện đã sáng rõ và kết thúc. Nhưng đến ngày 26/3/2023, lần đầu vào Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh mua được một tập sách 220 trang, trình bày trang nhã: Phan Ngọc-Sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam với Pháp do Omega Plus và Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản năm 2008. Bản thảo tác giả viết xong ngày 11/11/2005. Rõ ràng là sách mới viết và cũng mới xuất bản.

Nhưng đến trang 93 vẫn thấy có một nhận định rất cũ, chắc chắn không phải do Phan Ngọc nghĩ ra, mà chỉ nói theo những người trên đi trước cho bản thân được an toàn: Chính Phạm Quỳnh đã hất cẳng Ngô Đình Diệm khỏi Bộ Lại vào cái dịp ngọn gió Nam Phong  làm đổ cả 5 ông Thượng Thư ở Huế (1932).

Vì thế, chúng tôi thấy cần đăng lại bài sau đây đã đưa lên Blog PhamTon từ 2009

—o0o—

Hơn sáu mươi năm qua (Bài viết năm 2009-PT chú), ta thường nghe câu nói nôm na dễ nhớ là “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm” và cũng cảm thấy có lý, dễ tin! Vì sự thật lịch sử đầu thế kỷ XX là sau khi Ngô Đình Diệm từ chức một thời gian… thì Phạm Quỳnh lên làm Thượng thư Bộ Lại. Ngay Từ điển danh nhân Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh chủ biên, do NXB Văn hóa-Thông tin tái bản và có sửa chữa xuất bản năm 2009 cũng còn viết: “(Phạm Quỳnh-DT chú) Từ 1933, làm thượng thư bộ Quốc gia Giáo dục, chuyển sang Thượng thư Bộ Lại thay cho Ngô Đình Diệm.” (trích mục từ Phạm Quỳnh, trang 377 sách đã dẫn).

Nhưng sự thật không đơn giản như thế.

Năm 1932, hoàng đế Bảo Đại “hồi loan” chính thức “trị vì” đất nước và đã có cải cách quan trọng, thay thế các thượng thư già nua bằng một lớp thượng thư trẻ tuổi, gây nên vụ “Năm cụ khi không rớt cái ình” nổi tiếng trong lịch sử nước ta đầu thế kỷ XX. Vị thượng thư lão thành đầu triều Nguyễn Hữu Bài, từng làm Thượng thư Bộ Lại 16 năm liền, chỉ chấp thuận từ chức với điều kiện chức vị của ông phải được kế tục bằng chính người do ông tiến cử, cũng là con nhà đạo gốc Thiên Chúa giáo như ông. Người đó là Ngô Đình Diệm. Bảo Đại tán thành ngay và còn cho Ngô Đình Diệm kiêm giữ chức Tổng thư ký Ủy ban Cải cách. Nhưng, với vai trò Tổng thư ký này, Ngô Đình Diệm đã đưa ra một số cải cách không được Pháp tán thành. Ngô Đình Diệm không dám phản đối Pháp, chỉ đổ tội cho Phạm Quỳnh với câu nói là “Phạm Quỳnh không hợp tác” cho nên không làm việc được và xin từ chức, thành vị Thượng thư Bộ Lại giữ chức vụ trong thời gian ngắn nhất, chỉ có ba tháng (từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1933). Sau đó, Thái Văn Toản thay thế, giữ chức này cho đến khi về hưu năm 1942. Lúc ấy, Phạm Quỳnh mới lên làm Thượng thư Bộ Lại.

Như vậy là hoàn toàn không có chuyện “Phạm Quỳnh hất cẳng Ngô Đình Diệm” như lâu nay ta vẫn thường nghe, đọc. Cũng không phải là Phạm Quỳnh “chuyển sang Thượng thư Bộ Lại thay thế Ngô Đình Diệm”. Vì người thay thế ông “thượng thư ba tháng” Ngô Đình Diệm là Thái Văn Toản chứ không phải Phạm Quỳnh: Ngô Đình Diệm từ chức năm 1933 mà mãi chín năm sau, 1942, Phạm Quỳnh mới lên làm Thượng thư Bộ Lại thay thế Thái Văn Toản về hưu.

Nhưng, thực chất việc Ngô Đình Diệm từ chức là vì sao, có liên quan gì đến Phạm Quỳnh, một Tổng lý đại thần Ngự tiền văn phòng và Thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục? Điều bí mật này đã được Daniel Grandclément giải rõ trong tác phẩm Bao Dai ou les derniers jours de l’empire d’Annam (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của đế quốc An Nam – PT chú) (NXB JC Lattés, trang 43). Đại ý ông viết như sau: “Điều đã làm cho ông Diệm nổi cơn thịnh nộ lên và sinh lòng bất mãn, chỉ vì ông Eugène Châtel, vừa nhậm chức khâm sứ Trung Kỳ, đã cùng với Phạm Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng, muốn bãi bỏ quyền xử án của các hàng quan lại địa phương (Tức là thực thi Tam quyền phân lập, tách tư pháp khỏi hành pháp– DT chú). Đó là một đòn ác nghiệt đánh bể “hũ  gạo ngon” của giới quan lại Nam triều, về tệ trạng nhũng lạm đã trở thành thâm căn cố đế trong guồng máy cai trị kiêm quyền xử án rồi…

“Trong khi đó ông Diệm lại đóng vai bảo vệ cho quyền lợi của giới quan lại ấy, nên ông đã đơn phương vùng vẫy ngay trong nội bộ, chống lại chủ trương cải tiến mà ông cho rằng không hợp thời đó. Ông Diệm không biết rằng biện pháp cải tiến này đã được Toàn quyền Pasquier chấp thuận. Còn vua Bảo Đại thì dĩ nhiên lúc nào cũng chịu ảnh hưởng của Pháp và luôn luôn ủng hộ Pasquier, Châtel và Phạm Quỳnh. (…) Ngoài ra, ông Diệm lại còn hành động sai lầm: tự ý cung cấp các bản tường trình của các phiên họp nội bộ cho báo chí. Lúc bấy giờ, Louis Marty đang giữ chức Giám đốc An ninh và công tác Chính trị đã ngăn chặn được một bản tường trình của ông Diệm gửi cho báo chí, và chắc chắn Louis Marty đã báo cáo chuyện này lên cho toàn quyền Pasquier biết. Căn cứ trên luật lệ hành chánh lúc bấy giờ, ông Diệm đã vi phạm một sai lầm vô cùng trầm trọng. Như thế, chẳng khác gì ông Diệm đã công khai tuyên chiến với Toàn quyền Pasquier. Vì vậy, tờ Tribune (Diễn Đàn – DT chú) số ra ngày 21/7/1933 đã viết về vụ chống đối này là một “cuộc chiến quá chênh lệch”, mà ông Diệm không thể nào tránh khỏi sự thất bại trước mắt.” (Trích dẫn theo Đặng Văn Nhâm: Tìm hiểu cái chết oan khiên bi thảm của một danh tài lỗi lạc (Viết tại Đan Mạch, 3/7/1999).

Với thời gian, và những trí tuệ minh mẫn, lương tâm trong sáng của những người trung thực, lớp bụi mù bao phủ trên cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã mỗi ngày một bị xua tan, làm nổi rõ lên khuôn mặt thật trong sáng rực rỡ của ông.

Chúng tôi mong góp phần nhỏ vào việc làm Tổng Vệ Sinh đó và càng mong được sự giúp sức của quí bạn xa gần yêu kính, ngưỡng mộ nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa Phạm Quỳnh của chúng ta. Mục Tìm hiểu Phạm Quỳnh mong nhận được tin, bài, tư liệu về Phạm Quỳnh để làm sáng rõ hơn nhân vật từng bị chôn vùi hơn 60 năm qua nhưng vẫn sống mãi trong lòng những người dân Việt yêu nước và sáng suốt với lương tâm trong sáng, một lòng yêu nước, thương dân như ông.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/12/2009.

D.T.

Tháng Hai 9, 2023

“Viết di chúc”

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 2:54 chiều

Blog PhamTon năm thứ mười lăm, kỳ 2 tháng 2 năm 2023.

“VIẾT DI CHÚC” 

Phạm Tôn

Năm 2009 đối với tôi có nhiều kỷ niệm. Mà một vài là chuyện vui, thậm chí…buồn cười.

Sáng 22/2/2009, từ sớm, tôi lên phòng con trai để tưới cây, đi rón rén cốt không làm con thức giấc. Thì bỗng con đứng ngay sau lưng tôi từ bao giờ, nói lời chúc mừng sinh nhật bố một việc khác hẳn mọi năm và đưa ra cho tôi một cái thiếp bé xíu, bên trái là hình Ông Ngoại tôi hồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam Phong, và bên phải là mấy dòng chữ tự tay con viết: “Mong Bố khỏe và sớm giải oan cho Cụ. Biếu bố Blog Phạm Quỳnh. Đây sẽ là kênh thông tin chính thức của Phạm Tôn : https://phamquynh.wordpress.com

Thiep blog phamton tang bo

Thế là từ ngày hôm đó, ngày nào chúng tôi cũng phát các tư liệu đã tích lũy từ mấy chục năm qua. Chủ yếu là do hồi ấy có khá nhiều blog cá nhân ra đời rồi bị đóng cửa ngay. Sau thấy mọi sự đều yên ổn, lại được nhiều bạn đọc giao lưu động viên, chúng tôi bình tĩnh lại, quyết định ra hằng tuần như một tạp chí để bạn đọc dễ theo dõi. Thật là vui.

Cũng năm 2009 ấy, anh tôi kết hôn lần thứ hai, sau khi bà chị dâu mà tôi yêu quí như chị ruột qua đời mấy năm. Cả gia đình tôi về Bạc Liêu, dự đám cưới anh. Đi về đều bằng xe hơi. Gia đình tôi đi cùng một cháu rể. Xong việc là về ngay. Khi về đến xa cảng Miền Tây, cháu rể phải đỡ tôi xuống và nói với vợ, con tôi là xem ra chú kiệt sức rồi. Tôi về nhà và nằm thẳng cẳng, chỉ muốn ăn cháo thôi. Nhưng hôm sau lại đi làm.

Gặp nhau sau mấy ngày tôi nghỉ việc riêng, anh phụ trách nhóm người Nhật hỏi tôi có khỏe không. Tôi nói hơi mệt nhưng làm việc được, chiều sẽ đi khám bệnh. Anh hỏi có đau ở đâu không. Tôi chỉ vùng phải bụng, chỗ thắt lưng. Anh hỏi lại rồi nói anh bạn trẻ cùng làm đưa ngay tôi đi bệnh viện, vì có thể là viêm ruột thừa, phải mổ ngay. Chúng tôi đến bệnh viện quận I, khám, siêu âm hai lần, bốn bác sĩ cùng siêu âm kết quả ghi rất hay, không sai vào đâu được: Xin theo dõi viêm ruột thừa. Và tôi được chuyển lên tuyến trên. Lần này con trai tôi đã thay anh bạn trẻ đưa tôi lên Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, vào phòng cấp cứu to, nằm trên một sàn lớn có 19 người nằm sẵn, trên tường sát đầu nằm là một dòng chữ đỏ, to “Khu vực không ăn uống. Đến 12 giờ trưa, con tôi ra nói với bác sĩ là bố tôi bị tiểu đường, nhịn ăn lâu quá, sẽ hạ đường huyết nguy hiểm. Tôi được đặc cách ăn một miếng xan-uých uống nửa chai nước trắng trước con mắt thèm thuồng của 19 người còn lại.

Nhưng rồi, cứ sau khi các bác sĩ chụm đầu lại bàn bạc thì lại có sáu người đưa đi mổ. Đến 22 giờ đêm thì chỉ còn hai người là tôi và một anh người Đắc Lắc, nằm chờ mổ mà luôn có điện thoại gọi, lại phải chỉ đạo bán mấy tấn cà phê ở chỗ nào trong kho nào. Lúc lại được một cô gái trẻ chăm sóc lau mặt, lau tay cho đỡ mồ hôi. Xem cách cư xử, thì đây không phải là con gái. Đến 22:30 thì bác sĩ đến bảo anh cứ về nhà, muốn ăn gì thì ăn, cần giải quyết việc gì thì giải quyết ngay và khi nào đau thì đến ngay chúng tôi, một hai giờ đêm cũng được, chúng tôi mổ ngay. Anh bị xơ gan giai đoạn cuối, mổ cũng là năm ăn năm thua. Anh ta và cô gái trẻ thu xếp ra về, còn chào cả tôi nữa. 23:00 một y tá đến bảo con tôi đưa bố đến ngay phòng siêu âm cắt lớp, đến ngay kẻo bác sĩ họ chửi cho đấy. Con tôi bực lắm. Nhưng đến nơi mới thấy là cô ý tá nói đúng. Cả phòng siêu âm chỉ chờ có mình tôi. Chụp luôn hai đợt, có đến mấy chục hình.

Về lại chỗ cũ, thì một lát sau các bác sĩ trực đêm ấy lại đến bên tôi. Một vị có tuổi nói nhẹ nhàng, nhưng trong đêm tĩnh mịch tôi nghe rõ từng lời ông nói: “Tôi làm ở đây lâu rồi, tôi chưa thấy có khối u nào ở đại tràng xich-ma như thế này mà lại là lành tính cả…” Rôi tôi được lệnh lên trại, chưa mổ vội.  Con trai tôi nắm lấy vai tôi bóp khẽ và nói nhỏ “Không sau đâu bố ạ.” Tội nghiệp thằng bé bị tôi nói nhỏ nhưng rõ một câu “Con phải hiểu bố con không phải là người cần được an ủi, vỗ về. Nhớ lấy”. Con tôi đẩy bằng ca, che thân tôi bằng một tấm vải trắng. Cô bạn gái cùng lớp, cùng tuổi heo vàng đi bên cạnh xách quần áo, túi đeo của tôi.

Tôi còn dặn con tôi là blog của mình mới ra đời hơn nửa năm, phải giữ cho đều, không để bạn đọc mong, sợ là blog chết rồi. Vì thế, hằng ngày con mang tài liệu vào, bố nghiên cứu rồi viết nháp trong đầu, con đến, bố đọc cho con đánh thành bài, đứa đến bố chữa. Mẹ sẽ thay con những lúc con về nhà. Và thế là Blog PhamTon chúng tôi lại làm việc đều đặn. Chỉ có điều tôi bị đến năm cái giây truyền dịch và thoát dịch thải cho nên đọc khá khó. Vì vướng víu, có khi lại bị trái sáng. Vì vẫn theo y lệnh không được ăn uống như từ lúc đầu vào viện này.

Câu chuyện gọi là buồn cười xảy ra như thế này.

Có lần, vợ tôi bảo là trong phòng có mấy ông già đến trông con bị ung thư thắc mắc về hai bố con tôi lắm. Theo dõi mấy hôm liền, không chịu nổi đành hỏi vợ tôi là ông ấy gia đình có gì rắc rối lắm hay sao mà chúng tôi thấy ngày nào ông cũng đọc cho thằng nhỏ viết di chúc rồi bắt sửa đi đọc lại nhiều lần. Vợ tôi ngạc nhiên bảo chắc bố con nó chơi trò gì đó thôi chứ chúng tôi chỉ có một con, chết đi chẳng để cả cho nó thì cho ai. Vả lại vợ chồng đều là cán bộ nhà nước, chỉ có cái căn hộ nhỏ được mua năm nào chứ có của chìm của nổi gì đâu mà phải lo viết di chúc.

Rồi tôi được hẹn lịch mổ. Khi chia tay để vào phòng mổ, con tôi còn nói bố cứ yên tâm, con lo mọi việc đúng như bố dặn.

Bệnh viện khám trước mổ rất kỹ càng, làm nhiều xét nghiệm. Và kết quả là ra y lệnh: khi mổ không được dùng thuốc mê vì nếu dùng thuốc mê thì bệnh nhân lên cõi trên rồi khỏi mổ. Vì tôi bị dị ứng với nhiều loại thuốc mê hiện dùng, mà phải thay bằng thuốc tê truyền liên tục. Nhưng như vậy bệnh nhân sẽ tỉnh, khó mổ vì vẫy vùng mất nhiều máu, gia đình phải lo bốn đơn vị máu sẵn sàng. Con tôi rủ thêm ba bạn chí cốt hiến máu. Đủ máu rồi, còn một việc là bệnh nhân vốn lao phổi đã thành sẹo, phổi thở rất kém, mổ xong phải cho thở máy ngay. Đó là việc của các thầy thuốc. Còn bố con tôi chỉ lo làm blog cho ra đúng kỳ thôi.

Nằm chờ ở cửa phòng mổ, tôi nhẩm duyệt lại bài định viết trong đầu, chờ mổ xong sẽ đọc cho con đánh vi tính. Ca mổ hơi dài, từ 10:30 đén 16:30, tôi được đưa về phòng hồi sức và nghe rõ bác sĩ trực nói là mời các vị thân nhân bệnh nhân về nhà cho, hôm nay không ai ra được đâu. Vợ chồng chị vợ tôi và ông bà thông gia tương lai ra về.

Phòng hồi sức rộng mênh mông mà đầy chặt những băng ca. Quá tải. Bác sĩ lại rà soát xem tình hình bệnh nhân sau mổ thế nào, ai tỉnh rồi thì cho ra, ai còn mê man thì ở lại. Tôi có mê đâu mà tỉnh.  Thế là được vào danh sách về trại. Hai mẹ con thương bố cho nên đã thuê sẵn một phòng dịch vụ, có máy lạnh, lại chỉ có bốn người. Cô y tá nói bác sĩ vừa bảo người nhà bệnh nhân về hết bây giờ lại bảo cho về thì lấy đâu ra người. Đã hơn 22:30 rồi. Bà y tá già nói cứ ra cửa gọi đi, đuổi thì đuổi chứ không ai người ta bỏ người nhà mới mổ đâu. Và quả nhiên nghe gọi đến tên tôi thì con trai và con dâu tương lai đã chờ sẵn đưa tôi về phòng dịch vụ sang trọng. Tôi không phải tiếp máu trong khi mổ, cũng chẳng phải thở máy khi mổ xong. Bây giờ, chỉ còn duyệt lại bài con đã đánh thôi. Đó là bài mà các bạn sẽ đọc sau đây, có ghi rõ ngày tháng và nơi viết.

Sài Gòn 10/9/2018.

P.T.

Tháng Một 30, 2023

Chúng tôi đã sống như thế: Bước khởi đầu của nhạc sĩ Phạm Tuyên

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:40 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 1 tháng 2 năm 2023.

Chúng tôi đã sống như thế:

BƯỚC KHỞI ĐẦU CỦA NHẠC SĨ PHẠM TUYÊN

(Trích sách Chúng tôi đã sống như thế từ trang 46 đến trang 54)

Nguyễn Ánh Tuyết.

Lời dẫn của Phạm Tôn: Mở đầu năm 2014, chúng tôi vui mừng giới thiệu với bạn đọc trung thành và yêu quí tác phẩm Chúng tôi đã sống như thế của PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết, con dâu học giả Phạm Quỳnh, người bạn đời của nhạc sĩ Phạm Tuyên, do Nhà xuất bản Tri Thức xuất bản cuối năm 2013, năm Phạm Quỳnh tròn 120 tuổi.

Cuốn sách khổ 13×20, 5cm này dầy 420 trang. Đặc biệt sách này không bán.

Ba Tuyet sach chung toi da song nhu the*

*     *

Chúng tôi mời quí bạn đọc bài của PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết, người vợ hiền, người bạn đời của nhạc sĩ, viết về Bước khởi đầu của nhạc sĩ Phạm Tuyên, để hiểuPham Tuyen_Nguyen Anh Tuyet rõ vì sao nhạc sĩ đã chọn, và kiên trì đi theo con đường mình đã chọn nửa thế kỷ nay.

Phó giáo sư tiến sĩ tâm lý học Nguyễn Anh Tuyết sinh năm 1936 tại Đồng Hới, Quảng Bình, trong một gia đình cách mạng. Cha thoát ly gia đình đi hoạt động, ít khi có nhà. Sau đó, mẹ cũng giác ngộ cách mạng và thoát ly luôn. Bé Nguyễn Anh Tuyết được gửi về quê sống với bà ngoại và dì. Sau đó mẹ gửi vào ăn học ở trại Thiếu Sinh Quân Quảng Trị đóng trên đất Hà Tĩnh, rồi sang học trường Phan Đình Phùng. Học dở dang thì có người đến đón lên Nghệ An để “sang Trung Quốc học theo tiêu chuẩn con em cách mạng”.

Từ đó, Nguyễn Anh Tuyết sống và học tập ở Khu học xá Trung ương Nam Ninh (Trung Quốc), gặp, yêu thương rồi sau này thành vợ nhạc sĩ Phạm Tuyên từ năm 1957. Nay ông bà đã có hai con gái, hai con rể, ba cháu ngoại, quá tuổi tổ chức Đám Cưới Vàng rồi mà vẫn sống hạnh phúc bên nhau: người này là điểm tựa cho người kia vươn lên trong sự nghiệp và cuộc sống vốn không ít sóng gió

Năm 2007 bà bắt đầu viết tại Hà Nội và năm 2008 thì hoàn thành bản thảo hồi ký chẵn 200 trang giấy A4 Chúng tôi đã sống như thế

Bà mất tại Hà Nội ngày 11 tháng 5 năm 2009 (tức ngày 17 tháng 4 Kỷ Sửu).

Chúng tôi trích đăng dưới đây một phần trong hồi ký của bà viết về ông “người bà yêu suốt đời mà cũng là người suốt đời yêu bà. Nhan đề bài viết là của chúng tôi.

—o00—

S

au khi có được tấm bằng tú tài, năm 1948 Phạm Tuyên liền ghi tên vào học tại trường Đại học Pháp lý do luật sư Đỗ Xuân Sảng làm hiệu trưởng, với nguyện vọng là được trang bị lý luận về pháp luật để sau này nếu có điều kiện, khi bản án Phạm Quỳnh được đưa ra phán xử (như Hồ Chủ tịch đã nói với hai người chị của anh trong lúc gia biến năm 1945: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sau này lịch sử sẽ đánh giá lại”) thì mình còn có đủ lý lẽ để lấy lại công lý cho cha mình. Nhiều tri thức mới về luật pháp lại được các giảng viên truyền đạt hay, Phạm Tuyên bị thu hút vào những bộ luật và điều đầu tiên được khắc họa và khẳng định là “Quyền tư hữu là quyền bất khả xâm phạm của con người” (lúc đó được coi là chuyện bình thường). Nhiều lý luận chính trị, kinh tế… đang làm thỏa mãn tính ham học, ham hiểu biết vốn đã có từ hồi còn thơ ấu của anh. Tài liệu trong sách báo, chủ yếu là bằng tiếng Pháp và qua những cuộc nói chuyện của các cán bộ chính trị cao cấp và các vị trí thức đi tham gia kháng chiến để bổ sung cho những gì học được trong trường. Bạn học ở trường Đại học Pháp lý lúc đó là những thanh niên trí thức tản cư lên chiến khu như: Trần Văn Tý, Lê Đạt, Đặng Hồng Miên, Lê Hồng Chi, Nguyễn Vịnh, Đặng Đình Hưng, Trương Đắc Vị...

Đang háo hức thâu nạp tri thức thì giặc Pháp đổ bộ lên Việt Bắc, trường phải giải thể. Thế là “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu!”, Phạm Tuyên cùng với một số sinh viên được cử đi học tại trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn, khóa 5- khóa chuẩn bị tổng phản công. Anh bắt đầu đời binh nghiệp. Cuộc sống gian khổ của bộ đội ta đầu kháng chiến chống Pháp cộng với một chế độ luyện tập quân sự hà khắc bởi người huấn luyện là một sĩ quan Nhật là hàng binh được nhà trường sử dụng, không làm cho anh bộ đội “thư sinh” này nao núng. Những bài tập đi, chạy, lăn lê bò toài không phải theo kiểu của bộ đội ta mà theo kiểu quân phiệt Nhật. Nhiều lần ông ta bắt học viên lăn từ trên đồi xuống rồi lại bò lên. Quần áo rách nát, da dẻ xoạc sờn, thế mà các anh lính trẻ trọc đầu vẫn ráng sức chịu đựng. Câu hát “Thuở thanh bình anh là thư sinh, Thời chinh chiến anh là chiến binh” mà đồng đội đã hát tặng anh lúc đó thật là phù hợp. Cuộc sống hết sức gian khổ nhưng các anh vẫn lạc quan và càng gắng công tập tành. Không khí hăng say luyện tập, sinh hoạt tập thể sôi nổi đã làm Phạm Tuyên quên đi những chuyện đau buồn riêng mà bắt đầu cảm thấy yêu đời, thúc giục anh sáng tác bài hát cho đồng đội để động viên lẫn nhau. Ca khúc đầu tiên là bài Vào lục quân trong đó có đoạn: “Góc trời lửa rực cháy hoang tàn. Căm hờn giặc Pháp uất hận chứa chan! Chàng thanh niên lòng căm uất! Dứt bao tình thương quyết lên đường! Vào lục quân tìm thấy ánh sáng! Vào lục quân tìm thấy chiến thắng! Hẹn ngày phá tan quân thù…” Sau những buổi tập tành nặng nhọc ở thao trường trở về trại, các anh lính trẻ hát vang bài Đường về trại (do Phạm Tuyên sáng tác): “Khi đoàn ta dồn bước tiến về! Kìa trông thoáng xa mái gianh thân yêu! Vui thao trường cố quên nhọc nhằn! Bước! Ta cùng nhau tiến bước!…”. Càng tích cực luyện tập càng mong cho đến ngày tổng phản công. Hướng về ngày tổng phản công, anh viết: “Đây! Khóa chuẩn bị tổng phản công! Náo nức bao chàng trai, từng đoàn tập hợp nuôi ý chí hùng! Mong chờ ngày tổng phản công! Giữa chốn rừng sâu, giữa hoa lá xanh gắng tập tành! Pham Tuyen_Si Quan Luc QuanKhông tiếc chi xương máu giành ngày toàn thắng!”. Những ca khúc đó ngày nay nhiều đồng đội của anh, có người đã đeo quân hàm tướng tá, hay cán bộ cốt cán trong các ngành của Đảng và Nhà nước, tuy đã về hưu nhưng vẫn thuộc, vẫn hát mỗi khi gặp nhau. Tốt nghiệp trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn năm 1950, ngay trong năm đó Phạm Tuyên được điều về làm đại đội trưởng trường Thiếu sinh quân Việt Nam, nơi học tập và rèn luyện của các em “thiếu nhi mặc áo lính”, do cấp trên nhận thấy anh có trình độ văn hóa và tính tình thích hợp với việc giảng dạy các em nhỏ.

Vào một buổi sáng đầu hè năm 1950, khi Phạm Tuyên vác ba lô đến nhận công tác tại trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Cao Vân, Đại Từ, Thái Nguyên, các em thiếu sinh quân ùa ra đón anh thật sôi nổi. Trường được thành lập từ năm 1949, lúc đó mới có hai đại đội, anh được giao ngay nhiệm vụ làm đại đội trưởng Đại đội Ba, là đại đội bé nhất. Học sinh của trường là các em liên lạc viên ở các đơn vị phía bắc gửi về và một số học sinh vùng tự do, các em ở độ tuổi từ 11 đến 15, đang tuổi ăn tuổi chơi.

Công việc đầu tiên là sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho các em vào những lán trại được dựng theo chiều dài, trong đó có hai hàng giường đan bằng tre nứa kéo dài theo chiều của nhà. Không có hội trường, cũng không có lớp học. Họp chung thì ra ngoài sân, còn sinh hoạt trung đội hay tiểu đội thì ngồi cả lên hai phía giường ngủ. Đời sống của các em thiếu thốn vô cùng.

Hằng ngày dạy các em học văn và học nhạc, anh cùng các “chiến sĩ tí hon” đào hầm, dựng nhà, tăng gia sản xuất để tự túc một phần lương thực, thực phẩm, đi lấy gạo… sinh hoạt cùng các em anh càng thấy gắn bó với bầy “thiếu nhi mặc áo lính” ấy...

Buổi sinh hoạt lửa trại đầu tiên quanh đống lửa nứa khô nổ lép bép anh đã được nghe các em hát. Một cảm giác yêu thương tha thiết tràn ngập lòng anh khi nhìn những gương mặt non tơ trong bộ quân phục xuềnh xoàng, đã sớm phải xa gia đình để lên học tập tận nơi núi rừng Việt Bắc xa xôi này. Trăn trở hơn là khi anh chỉ nghe các em hát những bài bộ đội người lớn và quanh đi quẩn lại cũng chỉ có vài bài. Với vốn liếng âm nhạc đã có từ khi còn ở nhà, anh thấy không thể không viết ra cho các em những bài hát mới phục vụ cho sinh hoạt tập thể của đơn vị, hy vọng làm cho cuộc sống của các em nơi núi rừng được sôi nổi, vui tươi hơn. Và anh đã bắt tay vào sáng tác bài hát cho các em

Thế là chỉ trong một thời gian ngắn anh đã viết được một chùm ca khúc cho các em như các bài Em vào thiếu sinh quân để tặng các em mới nhập trường: Em vào Thiếu sinh quân vì em hằng ước ao sống bên bao bạn hiền/ Được dìu dắt em càng quyết tâm học hành! Cho chóng nên người hữu ích sau này, bài Lớp học rừng tả lại cảnh lớp học rất đặc biệt ở đây. Vì phải tránh máy bay giặc Pháp, nhà trường đã chọn cho mỗi lớp học một khu rừng nứa um tùm, cạnh bờ một con suối để dễ sơ tán khi có máy bay oanh tạc. Bàn ghế làm toàn bằng tre nứa và được chôn chặt ở dưới lùm cây. Học các môn văn hóa nhưng không có bảng đen, chỉ nói và cho các em ghi vào vở. Điều kiện học tập thì thiếu thốn và đơn sơ như vậy mà các em đều học tập rất nghiêm chỉnh và có kết quả tốt. Trong bài hát có đoạn: “Ngồi quanh đây bên cây bóng mát! Rừng xanh lá che bốn bề/ Nứa uốn quanh che rợp/ Gốc cây ta để sách/ Cùng ngồi bàn tre ghế nứa mới/ Ta hứng thú học quyết tâm/ Đắp xây ngày mai giữa rừng!”. Bài Thiếu sinh quân ở một nơi thật vừa! nói lên tâm trạng của các em nhỏ lúc đó, chúng không những tỏ ra khoái chí và rất bằng lòng với lớp học của mình mà còn có phần thích thú hơn vì được học trong lớp học đặc biệt do chính tay mình làm ra: “Thiếu sinh quân ở một nơi thật vừa/ Kề dòng suối trong, rừng nứa um tùm/ Lúc thi đua thật là thú vô cùng/ Vì tre nứa ngay bên rừng/ Giá ba lô và lợp mái chuồng gà/ Bàn lúc học, ghế lúc ngồi/ Cuốc “tăng xê” vừa đan liếp nhà/ Tay ta tự làm ra”. Những bài Em tăng gia, Của công là của nhân dân, Bài ca nhân ái, Năm yêu, Đố cờ… đều được viết ra để phục vụ cho sinh hoạt của các em lúc đó.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, thế hệ thiếu sinh quân từng hát những ca khúc này năm xưa đã thành ông nội, ông ngoại, nhiều người trở thành văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, các nhân vật trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta như: Đặng Nhật Minh, Thúy Toàn, Phan Phúc, Chu Hảo, Lê Đức Phúc, Vũ Khoan, Vũ Mão, Vũ Mạnh Kha… Nhưng mỗi khi gặp nhau họ vẫn không quên vỗ tay hát vang nhưng bài hát ấy.

Có thể nói những bài hát đầu tiên của Phạm Tuyên dành cho đối tượng thiếu nhi được viết ra từ cái môi trường đặc biệt này. Từ đây trở đi duyên nợ của anh đối với lứa tuổi thiếu nhi cứ dần dần được bền chặt hơn, có ý thức hơn. Và anh đã trở thành Nhạc sĩ của tuổi thơ như những thế hệ thiếu nhi sau này gọi anh như thế.

Trong trường Thiếu sinh quân Việt Nam, anh là một đại đội trưởng trẻ đầy nhiệt huyết, không những giảng dạy tốt mà còn hăng hái tham gia công việc của trường. Anh cũng coi đây là một môi trường rèn luyện cho mình về tác phong sinh hoạt cũng như sức chịu đựng gian khổ, nên được đồng nghiệp nể trọng và các em yêu mến. Có thể nói một trong những công việc vất vả nhất thời ấy là đi lấy gạo trên kho về, vác nặng, đường rừng xa xôi lại phải trèo đèo lội suối. Nhiều lần vác gạo lội qua khe thì gặp nước lũ ập về. Nước khe dâng cao và chảy siết, các em thiếu sinh quân lớn thì tự bơi qua được, còn các em nhỏ, mà đại đội của anh hầu hết là các em nhỏ thì phải có người lớn giúp đỡ. Trong tình huống đó, anh phải ráng sức vừa vác gạo vừa cõng các em nhỏ vượt qua dòng nước đang chảy xiết. Và thế là việc lấy gạo thắng lợi. Với sự phấn đấu vượt bực, anh trở thành tấm gương để đồng đội và các em nhỏ học tập. Anh được đồng chí Lê Chiêu, hiệu trưởng của trường, giới thiệu kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Anh được công nhận là Đảng viên chính thức vào ngày 27 tháng 7 năm 1950, đúng ngày Thương binh Liệt sỹ, một thời điểm rất đặc biệt đối với anh. Hôm đó đang đứng trong lớp giảng bài thì máy bay giặc Pháp đến ném bom, cả lớp phải sơ tán. Anh hướng dẫn các em nhỏ xuống hầm ẩn nấp rồi mình sẽ xuống sau. Nhưng không kịp! Bom đã dội xuống và anh đã bị thương, mảnh đạn găm vào người, máu chảy lênh láng. Dứt đợt báo động, anh được đưa đi cứu chữa. Người lớn thì cáng còn các em nhỏ thì vừa chạy theo sau vừa khóc thút thít vì thương anh quá, sợ anh bị làm sao! Anh được chuyến một cái lán ở La Bằng để được cứu chữa, chăm sóc tử tế. May quá, mảnh đạn chỉ găm vào phần mềm phía bên trái người anh, đến nay mảnh đạn vẫn còn nằm ở đó. Bộ quân phục anh mặc lúc đó bị thủng nhiều lỗ. Sau này chúng tôi giữ lại như một kỷ vật thời chiến đấu của anh. Từ đó anh luôn xứng đáng là một Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Các con tôi không những tự hào về điều đó mà còn rất tự hào vì có bố là thương binh! Suốt cả thời kỳ bao cấp tấm thẻ thương binh có giá trị vô cùng. Có nó người ta sẽ được ưu tiên về nhiều mặt như không phải xếp hàng để mua hàng, đi tàu xe không mất tiền, con em thương binh liệt sĩ đi học được hưởng nhiều quyền lợi. Các con tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao nhà mình lại không có thẻ thương binh để được ưu tiên? Đó là vì bố các cháu không chịu đi làm thẻ thương binh. Anh nghĩ đơn giản rằng việc anh bị trúng đạn xảy ra đã quá lâu và vết thương cũng đã lành rồi, hơn nữa thủ tục làm thẻ thương binh cũng rất rắc rối như bất cứ một loại giấy tờ nào trong thời bao cấp!

Sau này khi nước nhà đã thống nhất anh gặp lại đồng chí Lê Chiêu (lúc này đã mang quân hàm thiếu tướng) trong một cuộc họp mặt truyền thống của thiếu sinh quân, anh hỏi đồng chí Lê Chiêu: “Hồi đó anh giới thiệu tôi vào Đảng, bây giờ anh có ân hận gì không?”. Đồng chí Lê Chiêu không nói gì, chỉ đến bắt tay anh thật chặt và cười vui sướng đầy vẻ tự hào.

Năm 1951, sau chiến dịch Biên Giới, trường Thiếu sinh quân Việt Nam dời sang Quế Lâm (Trung Quốc) để có điều kiện ăn học tốt hơn do Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc dành cho. Trường Thiếu sinh quân Việt Nam lúc này trở thành trường Thiếu nhi Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và được bổ sung một số lượng đông đảo các em thiếu nhi từ trong nước sang, rồi sau đó lại sáp nhập vào Khu học xá trung ương đóng tại Nam Ninh (Trung Quốc).

(Phần này viết theo nhật ký của Phạm Tuyên hồi đó và theo lời kể của bạn bè và học trò của anh).

N.A.T.

Tháng Sáu 18, 2022

Giã từ cảng thân yêu – P3: Sông Hồng dậy sóng – 1971

Filed under: Ý kiến,Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:46 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 2 tháng 6 năm 2022.

Chuyện một người cháu ngoại

GIÃ TỪ CẢNG THÂN YÊU

  1. Sông Hồng dậy sóng- 1971

Tôi bắt đầu năm 1971 chứa chan hy vọng tự tin, quyết tâm, lòng vui phơi phới. Dậy từ 5 giờ đưa em Nhàn và cháu Hải con em ra bến xe đi Nông trường Mộc Châu. Những bến xe bến tàu con phà… bao giờ cũng gợi nơi mình những khát vọng được đi xa, được nhìn nghe ghi nhớ nhiều điều mới lạ. Cũng là dịp để cảm thấy bản thân dốt nát lạ thường, dốt nát toàn diện, những điều không biết, chưa hiểu rõ còn nhiều vô hạn, chẳng mong gì giỏi giang, chỉ mong bớt dốt tí nào hay tí ấy.

Thế mà bao giờ cũng mong có ngày cầm bút viết lách.

May mà bên mình còn có những bạn cùng chí hướng. Ngô Tiến Thái bạn mới rời cảng đi bộ đội, và vẫn làm thơ gửi về cho mình. Cô bạn nhỏ mê sách ở báo Tiền Phong. Chiều ngày đầu năm Tây, mình đến thăm cô, mang theo cuốn họa báo Liên Xô có bài và ảnh nhà thơ Étxênhin. Cô bạn nhỏ thích lắm. Nhưng chỉ cho xem,  vì là báo mượn. Cô bạn thích quá, đọc ngay, còn nói là rất thích thơ Block, đọc mấy câu thơ dịch của Block lại còn thích cả Đôxtôiépxki. Tối, mình đem tranh Đốt, Block và cả ảnh Étxênhin do chủ tờ họa báo cắt cho. Tiếc là không gặp, đành gửi cô bạn cùng buồng. Thế là mình có tổ ba người một nhà thơ, một phóng viên và mình đều say mê văn học nghệ thuật, muốn hiến cả đời cho sự nghiệp đó.

Mình treo trước mặt bàn làm việc ở nhà bức tranh do Giucốp vẽ: Ăngghen nằm ngả trên giường, đầu gối cao, tay phải cầm bút, tay trái cầm bản thảo bộ Tư Bản của Mác, bên giường là một cái ghế con, một cái áo khoác mắc chỗ tựa lưng. Trên mặt ghế, một ly nước có thìa nhỏ, một lọ thuốc bé và chồng bản thảo dầy Ăngghen viết theo ý định của Mác.

Sáng 6/1, một người vừa bị kỷ luật đến phòng giám đốc Nguyễn Kim Bài chửi thậm tệ, vạch ra nhiều vụ đen tối mờ ám của cả một bè lũ tham ô ở cảng. Hầu như ngày nào cũng có những vụ chửi bới như thế. Xem ra dân cảng đã tức nước muốn vỡ bờ rồi.

Tối em Nhàn từ Mộc Châu về Hà Nội học, mang theo cháu Hà là con thứ hai. Cháu khỏe, da trắng, mắt to đen lay láy. Sắp Tết rồi. Cả nhà đoàn tụ. Em Nhàn nói anh phải làm thế nào chứ, hốc hác quá. Mình cười, trả lời rất vô duyên bằng một câu vợ Lênin nói về Người: Người không chết sớm sao được. Thật lòng mình muốn sống thật lâu, vì tài hèn, sức mọn như mình, phải sống thật lâu mới mong làm được một chút gì cống hiến cho nhân dân.

Sáng 16/1/1971 đến nhà chị Dung nhân viên phòng hành chính giúp tổ chức đám cưới con trai. Lạ thật mới ở bộ đội về chưa có công việc lại cưới vợ. Cưới thì tất nhiên có ăn có uống. Thế là đủ mặt lãnh đạo cảng đến chén chú chén anh. Ngày chị Dung ốm đau, có ai tai to mặt lớn đến hỏi một câu. Nay mấy con ngan, gà nhà chị bị giết để làm cỗ bàn thì lại có đủ mặt bí thư đảng ủy, chánh phó giám đốc, chánh phó thư ký công đoàn bí thư thanh niên, trưởng phòng hành chính đến dự.

Sau thời gian nắm tình hình và suy nghĩ kỹ, mình thấy từ nay phải đứng ra lo việc chi tiêu trong gia đình, không thể để mẹ lo quá nhiều, không để ai trong nhà vô trách nhiệm với cuộc sống chung được. Từ nay, mỗi người làm ra được bao nhiêu tiền đều phải nộp hết, chỉ được tự ý chi tiêu trong vòng 5 đồng như một tân binh. Tất cả vì cuộc sống của cả gia đình, nhất là lo cho mẹ, bác già, cu Hà. Không được để trẻ con người già thiếu thốn quá. Chưa tăng gia sản xuất được thì phải thực hành tiết kiệm. Cậu Phạm Khuê dặn dò rất kỹ càng, góp ý cho cả việc nghỉ ngơi xen kẽ để có thể làm việc được lâu dài. Cần hết sức tiết kiệm sức khỏe, không được có những việc làm vô nghĩa, suy nghĩ vô ích. Suốt mấy ngày giáp Tết Tân Hợi 1971, mình lo trang trí nhà Đỗ Xuân Bảo nơi mình vẫn tá túc bấy lâu nay khi nhà không có ai về. Còn ngâm, thái măng chuẩn bị ăn Tết. Tối 30, về nhà ăn cơm, rồi đến nhà ông thuyền trưởng Hồng, bố em Nguyễn Mạnh An. Lại ăn, uống rượu, trong bữa ăn nhiều lần ông nói không có anh thì không có con bé Phương này. Em Phương 6 tuổi, hiền ngoan, xinh xắn cứ luôn gắp món ăn cho mình, cặp mắt nâu, chân thành, thân thiết lắm. Có gì đâu, mình đến nhà thấy con bé xanh xao, tái mét, hen sù sụ. May có ống thuốc viên to đỏ có thành phần Vitamin B12 bà cô ở Pháp gửi cho, bèn cho em, không ngờ em khỏe ra, có đà, lại như những đứa trẻ khác. Sau đó về cảng, chiếu phim đèn chiếu cho công nhân nghỉ giữa ca. Ghé nhà cụ Nguyễn Văn Sán lão làng bến cảng, rồi 22 giờ lại về cảng chiếu phim cho công nhân làm Tết xem. Xong là xuống anh em ca nô, ăn bánh chưng uống rượu, chè, thuốc lá, đón giao thừa nghe lời chúc tết của Bác Hồ Bác Tôn, xem pháo hoa ngay trên mặt nước sông Hồng cùng thuyền trưởng Tường, máy trưởng Thanh, cùng các thủy thủ ca nô sà lan. Đêm ấy, ngủ chung chăn chung màn với một thủy thủ trẻ trên một xà lan nhỏ. Sáng mồng một Tết, cả nhóm trên sông lại tụ họp chè, bia mỗi người tu một chai, lại bánh chưng thuốc lá. Rồi là du xuân xuất hành. Máy nổ giòn ca nô đi một vòng kiểm tra hai bờ sông thuộc phạm vi cảng. Thật sảng khoái, hạnh phúc. Ngày mồng một, còn sang Gia Lâm thăm một cán bộ công đoàn, bạn chiến đấu nội thành của cụ Sán. Ông đã có tuổi, hiện làm ở ban kiểm tra Liên hiệp công đoàn Hà Nội. Nhà ở bãi giữa, mái lá nát, vách gỗ sơn xanh lá cây rất đẹp, cuộc sống thanh bạch, tư cách cao thượng của bác Nguyễn Văn Khánh khiến mình mến phục. Trưa mồng hai, bác Trần Hữu Thông, người bạn vong niên đến nhà, ở cho đến tối. Rất tiếc là cơn đau thần kinh hông to khiến mình chỉ nằm mà tiếp chuyện ông. Cũng không thể dự lễ cưới Nguyễn Đức Hoan, một bạn thân từ thời học cấp hai.

Đêm đau mỏi rã rời, ngủ mê mệt. Sáng dậy, đọc Gia đình búp bê của Íp xen chị Thanh Vân cho mượn. Quá hay. Lại nhớ dến bài Nôra đi rồi thì ra sao? của Lỗ Tấn, càng sợ cái sáng suốt, triệt để của tư tưởng Lỗ Tấn. Nhà văn ngày nay phải là một nhà cách mạng triệt để.

Tối thứ bảy, dự cuộc họp mặt với các bạn cùng học Chu Văn An ở nhà Nguyễn Đức Thoại cùng tổ cũ. Tết, vui, nhộn, nhắc nhớ nhiều kỷ niệm tươi đẹp thời học sinh vô tư, ở cái khối 10 có đến lớp 10H. Bọn mình là 10E. Rõ ràng là các bạn yêu mến, hy vọng chờ đợi nhiều ở mình. Không ai muốn tin là mình chỉ làm được những việc thật sự mình đã làm. Các bạn tin và mến mình đến mức không cho phép mình được làm một người bình thường… như các bạn. Bực mình, tôi đứng dậy móc trong túi áo ra một miếng sôcôla Liên Xô tròn bọc thiếc vàng như một đồng tiền xu. Tôi bảo bạn gái duy nhất dự họp là bạn Thuyết nay là đại úy bác sĩ công an xem có thích cái này không. Cô đỏ mặt, mắng tôi là đồ đểu. Tôi nói tôi tưởng tôi thích thì bạn cũng thích nên mới mời, ai ngờ bạn khác người. Tôi đành bóc ra mời bạn ngồi cạnh ăn. Mấy bạn khác cũng ăn ké, rồi mọi người vỗ tay cười vui vẻ. Chị ta nhầm với cái đồng tiền vàng Tiệp Khắc, trong là cái … bao cao su!

Ngày 22/2/1971 sinh nhật mình rơi đúng ngày thứ hai, ngày bận rộn nhất trong tuần. Sáng, mang đến Cảng một lô dụng cụ thí nghiệm của nhà và xin được, anh em giáo viên và học viên phấn khởi lắm. Chiều, ba chú Chung, Thủy, Lân rán cá, nấu canh cua, còn mua cả bốn chai bia Hà Nội, mời mình ăn cơm với các chú. Buổi tối, các lớp học rất vui, mình dạy thay bác Thông một tiết văn, học viên rất hào hứng. Các giáo viên , nhất là Lập, Ruật hăng hái sẵn sàng làm đồ dùng giảng dạy vào các buổi trưa thứ tư, thứ bảy. Tan học, về nhà tập thể ngủ… Nghe Vi và hai cậu nữa ngâm thơ Thanh Hải, xúc động nhớ đêm nào được nghe bài Quê hương này trên bờ cát sông Gianh. Mất điện. Mình giảng cho Chung mấy bài toán dưới ánh lửa bập bùng của cái chai nhỏ có nút vải làm bấc.

Chiều hôm sau, thăm cháu Hà đang thở khò khè, sau khi tiêm hai mũi Streptomyxin. Cháu Ngọc thì nằm bệnh viện Đống Đa, bị xuất huyết đường ruột. Lo quá không biết lấy gì trả nợ khi mà tiền vào nhà mình như gió vào nhà trống.

Trưa thứ sáu, về nhà, nhận được cuốn sách anh Đại gửi Yêu mến tặng em Thành nhân ngày sinh 22/2 – Anh Đại 2/71. Mình đã 31 tuổi, hết tuổi Đoàn. Lẽ ra, trưa nay, thứ ba, 2/3/1971, mình đã được làm lễ ra Đoàn. Nguyễn Thế Hào, bộ đội chuyển ngành, cùng làm chuyên trách công đoàn với mình, là bí thư chi đoàn xin ý kiến các đồng chí, yêu cầu các đồng chí ở lại họp cho mươi phút để làm lễ ra đoàn cho đồng chí Thành, chỉ cần năm mười phút thôi là đủ… nhưng đã 14 giờ rồi, đến giờ làm việc, đành hoãn vì chẳng ai bằng lòng ở lại thêm một phút. Cuộc họp đã muộn một giờ so với giờ triệu tập. Chưa bao giờ thấy Đoàn mất giá như ở đây, bây giờ… Hôm sau, tình cờ soạn bài, được biết Newton thọ đến 84 tuổi. Về già ông vẫn sống đơn độc, có cô cháu gái lo cho mọi việc. Xem ra mình cũng mong được như thế mới mong có thời giờ để làm những việc cần làm. Tối ấy cô Lê Thị Thu ở nhà bên sang chơi, tưởng mình ốm nặng ở nhà đã lâu, kêu là mắt sâu, mặt gầy quá.

Bang do thanh nien xung kich

Một sáng, mình về thăm nhà in báo Nhân Dân có việc liên hệ mua giấy loại cho học viên, nhưng chính là về thăm các bạn cũ. Các anh,  các bạn vui mừng đón mình, tin cậy kể cho nghe những chuyện riêng về các bạn cũ và bản thân từng người, những con người thú vị, đôi khi kỳ quặc, nhưng dù sao cũng đáng mến vì đã dám đặt ra cho bản thân một mục đích trong cuộc sống, để quyết tâm thực hiện mục đích ấy. Thăm cả Nguyễn Văn Thịnh, bạn sửa bài bị ốm, gặp thêm một số bạn thợ in cũ, trò chuyện thân mật. Anh em vẫn quí và tin mình lắm, nói thẳng hết mọi chuyện… Thật là sai khi lâu nay không đến thăm các bạn. Cậu Khuê cũng ở khu tập thể Kim Liên. Ghé thăm cậu, cậu bầy cho nhiều cách để có thể làm việc bền bỉ lâu dài.

Thứ ba, 16/3 Nguyễn Xuân An đã về, vừa đến chơi. Gầy, già, mặt đen xạm, lại đeo kính trắng. Vẫn còn ở Đội điều trị 12. Kỳ này sẽ phục viên vì không còn đủ tiêu chuẩn chuyển ngành. Thế mà gặp nhau, An rất vui. Trò chuyện mà cứ buồn cười vì hai thằng thanh niên mà trông cứ như hai ông lão hom hem.

Thứ sáu 19/3/1971, Cảng có một cuộc họp nhỏ mà to. Chi bộ văn phòng 3 họp kiểm điểm phó giám đốc Nguyễn N., công nhân quen gọi là lão N. Béo vì lão ục ịch như một người Tàu bán dàu cháo quẩy. Đây là kế sách thí tướng của Đảng ủy Cảng, đứng đầu là bí thư Đào Mạnh B. giỏi văn thơ thà giết một người cứu cả bọn. Thật lố bịch vì mẹo hay nhưng diễn quá muộn. Cuộc họp này mở đầu cho sự suy sụp của cả tập đoàn tham ô ăn cắp của công của dân dưới danh nghĩa cao quí của Đảng.

Sáng chủ nhật 21/3, dậy sớm thu xếp cho các cháu Hải, Hà, Ngọc cùng vợ chồng Nhàn Long đi xem xiếc do Nguyễn Thế Hào mua vé hộ. Mục đích là đón cháu Hải về sống ở nhà và tiễn bố con Hà về Mộc Châu. Soạn giấy tờ cũ, tình cờ thấy thư của Nguyễn Thị Bạch Kim cô bạn cùng tuổi biết nhau từ năm 1955 khi Kim từ Trung Quốc về theo đoàn của Khu học xá Trung ương trình diễn văn nghệ tại Đại hội liên hoan văn nghệ toàn quốc. Thư gửi từ Nghĩa Lộ, ngày 29/11 hồi Kim mới ra trường Nhạc, chữ viết rất to rõ ràng: Còn công việc của Thành ra sao, học  được nhiều chưa và có hay ốm không. Cô bạn thật hiểu mình, cả cuộc đời chỉ gọn trong ba thứ: công việc, học và hay ốm. Tiếp đó là một việc rất khó chịu nhưng lại hết sức cần thiết lúc này: Tính toán kỹ tiền nong sao cho cả nhà có cái ăn đến kỳ lương tới. Cứ ngồi vào bàn, tai nghe mẹ nói đủ thứ chuyện trả lời cho có lệ… Phố ồn ào, loa khu phố hát những bài hùng hồn, tha thiết về Đường Chín Nam Lào, mặt trận lớn nhất hiện nay.

30/3/1971, đọc xong cuốn sách của Prisvin Bốn mùa – Lịch thiên nhiên. Em Thân đến gần mình, mình cất nhật ký đang ghi đi, rồi nói về Prisvin khen là tế nhị, tinh vi, còn kể lại cả một đoạn ông viết về Sêriôgia mình cho là sâu sắc… Em nghe chăm chú, sau đó nói một câu làm mình bất ngờ: Lúc này mà còn đọc Prisvin được, còn thưởng thức được cái hay cái đẹp thì lạ thật… Có lẽ em ám chỉ mình ốm đau, túng thiếu, bận bù đầu, vừa chở hai bao tải trấu từ cảng về mệt rã rời, cả người bẩn thỉu… sao tâm hồn bay bổng thế được.

Chiều 1/4, gió lớn, khoảng sáu giờ chiều thì mưa mạnh nhưng thưa hạt sấm chớp đùng đùng. Trời trở lạnh. Gần giờ học, mình và Lê Văn Thát ngồi ở văn phòng công đoàn nhìn trời mưa, lo không có học viên. Sát giờ học, mưa tạnh, cả học viên các lớp được nghỉ cũng đến yêu cầu dạy. Thì ra cái đốm lửa văn hóa đêm đêm vẫn sáng trên nền đen tối tăm ám muội ngu xuẩn của Cảng.

Ban lãnh đạo cảng đang lo sốt vó, tìm mọi cách đối phó với Đại hội công nhân viên chức Cảng, ngăn cản những đại biểu chống đối, hạn chế nội dung phát biểu ở hội nghị, Tối nay là đại hội trù bị, mình đành nghỉ học để tận mắt thấy, tận tai nghe mọi diễn biến của hội nghị. Tối 2/4 và cả ngày 3/4  đều dự Đại hội. Các thủ đoạn của ban lãnh đạo kìm hãm tự do dân chủ đã thành công. Đại hội diễn ra tẻ nhạt, gần như chưa từng có đại hội. Tối hôm sau, Nguyễn Xuân An đến chơi, cho một cái quần bảo hộ lao động cũ bảo sửa đi mà mặc. Nói chuyện khá lâu về tầm sâu sắc của con người, mình nêu vấn đề, An cho ngay những dẫn chứng minh họa. Hai đứa mình nhắc đến Thái, lâu nay vắng thư. Mong rằng bạn đã trở lại đơn vị chiến đấu, thoát ra khỏi những tư tưởng u ám thời gian vừa qua. Đêm chủ nhật 4/4, mơ thấy  hai chuyện sáng ra còn nhớ rõ. Có một lớp học với mười học viên lớn tuổi do một cô công nhân Cảng dạy. Toàn là nữ. Mình và một số thanh niên đang đi xe lửa ra tiền tuyến.

Mỗi tối đi học về là đến ngay Cảng. Cậu Khuê bảo ít về nhà có lợi cho sức khỏe và cũng lợi cho tư tưởng hơn. Gặp Nguyễn Văn Tân và Bùi Lê Nghiên đi bộ về sau lớp học Pháp văn, thế là thành xe Din ba cầu. Mình đèo Nghiên ở gióng trước, còn Tân ngồi chỗ đèo hàng. Có cái xe đạp này là nhờ chuyến đi Quảng Bình về mới được phân phối. Từ nay, cứ tối học xong là về ngay cảng, anh em ở khu tập thể mong mình về với anh em nói chuyện giúp họ học. Nhiều chú kéo áo hỏi việc đi Công trường 71. Mình không biết gì cả. Sau gặp anh em lái xe mới biết cảng sẽ đưa khoảng 60 người vào công trường 71, làm đường  phục vụ tiền tuyến. Nói công trường 71 tức là ngay đường 9 rồi. Xem ra, không ai hào hứng đi cả. Nhất là mấy cán bộ được dự kiến cử đi cứ nằng nặc đòi ở lại. Lái xe Đoàn Phát Thanh ở buồng cạnh buồng Bảo lái cẩu nói Hậu phương có thể nói là khốn nạn anh nhỉ, không hết lòng với tiền tuyến, lại không nhiệt tình đón nhận những người chiến đấu trở về. Bây giờ Thanh đang trầm ngâm. Nhưng mình tin là khi Tổ quốc yêu cầu chàng trai Tiền Hải vạm vỡ ấy sẽ lên đường lập chiến công vẻ vang. Thanh nói đúng. Cả ngày 14/4 cán bộ cảng họp bàn cử người đi công trường 71, đi B, đi C. Lãnh đạo cảng có kế hoạch tống khỏi cảng những người mình không ưa. Cục trưởng Bình Tâm cho biết bộ đã phát hiện ra âm mưu này, buộc bí thư B. lên gặp đảng đoàn bộ. Vì thế buổi họp công bố danh sách biến thành cuộc họp phổ biến chủ trương chung. Mọi cán bộ phải nộp lý lịch để bộ xét và chỉ định.

Trưa 9/4, ăn cơm, uống rượu đến say ở nhà Đỗ Xuân Bảo lái cẩu, tiễn Nguyễn Văn Kế lái xe đi công trường 71. Kế không vui lắm vì phải đi thay người được chỉ định nhưng nhất định không chịu đi. Đoàn Phát Thanh tuyên bố: Đi là đi không có thèm quì gối khom lưng xin xỏ như lũ đớn hèn. Gia đình có gay thật đấy, nhưng cần thì cứ đi. Chỉ dặn một câu thôi, không làm đúng như lời dặn thì không về nữa…

Tối 11/5, mưa to như trút nước, vừa mưa vừa gió, chỉ một lúc là trong nhà cũng mát hẳn đi, đêm ngủ đắp được chăn bông. Cứ nghĩ đến nhà em Nguyễn Mạnh An chạy mưa khổ đến thế nào. Cái Phương 6 tuổi ít nói mà cũng than: Ngồi mà cũng ướt. Cứ nghĩ thế mà mãi mới ngủ được.

Từ sáng 19/5 mưa như trút nước, gần như bão. Mãi đến 11 giờ mới thưa hạt. Chiều 28/6, bí thư đảng ủy cảng Đào Mạnh B. mời toàn thể cán bộ, nhân viên văn phòng đến họp để nghe phổ biến nghị quyết của bộ. Không  báo bằng bảng, không nhắc nhở trên loa, gần đến giờ họp mà có ai hỏi có họp hay không thư ký công đoàn Mai Văn S. vẫn nói là không biết. Vậy mà chưa đến giờ hẹn anh em đã lần lượt kéo về, kể cả những người đang ốm, đang nghỉ phép. Chưa bao giờ khối văn phòng đi họp đông đủ lại đúng giờ như vậy. Bác Quảng, một cán bộ ngót 30 năm trong ngành, mấy năm nay vẫn chăm chút bộ râu ria theo kiểu Lênin, hôm nay cạo nhẵn nhụi trông trẻ ra đến mươi tuổi. Bác ngồi ngay hàng đầu, tay cầm bút chăm chú nghe và thỉnh thoảng ghi chép vào một cuốn sổ to. Hàng chục người khác cũng ghi chép. Tất cả đều chăm chú lạ thường đến nổi bí thư Đào Mạnh B. vốn văn hay, thơ giỏi thường ba hoa nói dài hôm nay đâm ra dè dặt nói đã ngắn lại hay lặp lại, nói lắp rất nhiều

Bộ đã công nhận là nhóm lãnh đạo ở Cảng có tham ô, ăn cắp, móc ngoặc. Bộ sẽ xét xử nghiêm từng vụ từng người.

Đó là điều mọi người dự họp chú ý. Họ bỏ ngoài tai hết những lời vo ve tuyệt vọng của Đào bí thư rằng ai cũng có cái sai, làm gì có phe trong cảng này cơ chứ, đây là một tổn thất chung của tất cả chúng ta.

Thế là vào những ngày tháng 6 oi bức, nước sông Hồng đang dâng lên mênh mông đỏ rực, Cảng Hà Nội bắt đầu bước vào một thời kỳ mới sẽ sống lại mạnh mẽ hơn xưa.

Nắng. Suốt ngày 1 và ngày 2/7 đều mệt rã rời. Toàn là họp và học chính trị.  Chiều ngày 1 còn phải đem thân lên sân khấu lãnh phần thưởng của Bộ Giáo Dục, có giấy khen và một cái bút máy Trường Sơn rụt cổ. Buổi trưa mồng 2 , phơi cái quần Thuỳ cho mới toanh số 0 mặc lút gót chân, bị mất cắp.  Thế là chỉ còn đúng một cái quần lành lặn.

Đầu tháng 8, nóng kinh khủng, trưa 36 độ. May mà chưa có gió Lào, nước sông cũng đang xuống dần. Nhưng sắp tới mới là đợt nước lớn, dân bến cảng ai cũng biết thế.

Trong những ngày này, không khí ở cảng sôi sục. Các vụ tham ô lần lượt bị đưa ra ánh sáng. Những người mơ hồ nhất, hiền lành nhất cũng phải lên tiếng ủng hộ cái đúng.

Mẹ lên Mộc Châu với em Nhàn, mình tiếp quản gia tài mẹ để lại lo việc nhà. Hỡi ôi, chỉ có một tờ giấy ghi rõ ràng phiếu nào mua cái gì còn bao nhiêu phiếu thì bà cụ đã quên… mang lên Tây Bắc tất cả rồi!

Cả tháng 8 sẽ toàn ăn giá chợ. Đấy là cái mất thứ nhất. Cái mất thứ hai quan trọng hơn nhiều, đó là thứ giúp  mình kiếm tiền bấy lâu nay. Tư liệu để viết những mẫu nhỏ, vui , có ích mà các báo rất cần, nhất là báo thiếu niên nhi đồng. Trưa nay, nghĩ ra một ý rất thú vị, vội ghi vào phiếu. Khi tỉnh hẳn dậy, mới biết là ghi trong ….mơ

Trưa 8/8,  vừa chợp  mắt thì Đào Văn Thuỳ đánh thức dậy. Chú ta đưa ông bố từ Việt Trì về thăm Hà Nội đến thăm mình. Mục đích là để giới thiệuLinh xe tang Anh Thành mà con vẫn kể với thy đấy. Thuỳ cũng lái cẩu lớn, học ở Trung Quốc về cùng đợt với Đỗ Xuân Bảo. Sau đi bộ đội, cao lớn, đẹp trai, vào đoàn nghi lễ, nhưng chỉ một mực đòi đi làm chiến sĩ xe tăng. Cuối cùng ngày 30/04/1975 vào dinh Độc Lập trong xe thứ hai.

Giữa tháng 8/1971, tình hình ở cảng càng căng thẳng. Công nhân đòi công bố danh sách đại  biểu tham dự đại hội công nhân viên chức để phát hiện những đại biểu không đủ tư cách, không để đại hội vô dụng như kỳ trước. Phó bí thư công đoàn không dám công bố, nói là để đến tối họp trù bị sẽ giải quyết khi kiểm tra tư cách đại biểu nhưng ai muốn xem danh sách thì ông cũng không ngăn cản. Các thư ký công đoàn xưởng và đội bốc xếp 1/5 đều nói kỳ này sẽ đấu đá phải biết. Ở đại hội cơ sở công nhân phát biểu hăng hái lắm…

Mưa vẫn lớn. Nước hồ ngập ngày càng nhiều  khu vực thuộc cảng. Uỷ ban quận đã cho người xuống kiểm tra, sẽ cho mượn máy bơm về  bơm nước ra sông. Hiện nước sông đã cao hơn nước hồ nhiều, lại vẫn tiếp tục dâng. Giám đốc Nguyễn Kim B. ốm, đi nằm bệnh viện. Bí thư Đảng Đào Mạnh B. cũng ốm ít ra phòng làm việc, bí thư thanh niên lúc nào cũng săn hỏi bên công đoàn có đợt an dưỡng nào không… Họ sợ giáp mặt với quần chúng công nhân viên chức quá rồi. Bác Nguyễn Văn Tuân phó giám đốc thì thanh thản rủ mình ra vườn hoa  Chí Linh nói chuyện tầm phào, ăn kem que Tràng Tiền

Ngày 18/8  nước sông vẫn lên, còn lên rất nhanh. Đêm qua bọn con gái rủ nhau nằm hai đứa một giường còn kéo nhau chạy lụt cho nhanh, vậy mà đang ngủ đã thấy ướt hết lưng, với tay là đụng guốc dép lềnh bềnh. Vội kéo nhau chạy. Kiếm xe cải tiến chở đồ đạc  vừa chạy vừa cười nói hồn nhiên. Những con đường đi qua đê sông đều được lấp lại. Ven đê rất nhiều nhà bạt, ni lông dựng tạm để tránh lũ. Bọn con gái nhanh chân chiếm được một cái lều bạt của các chú bộ đội ga lăng. Trong khi đó, nước vẫn lên khoẻ, mặt sông mênh mông cuồn cuộn những làn sóng đỏ. Đã có nguời chết đuối vì đắm thuyền.

Ngày 19/8 Đài truyền thanh Hà Nội truyền đi lệnh khẩn cấp của ban chống lụt bão thành phố. Tăng cường canh gác đê, mỗi điếm ngày phải có 20 xung kích , đêm 30 với đầy đủ dụng cụ sẵn sàng ứng cứu đê, 15 phút tuần tra một lần . Mưa vẫn rất dữ. Mười giờ tối, cảng Hà Nội hoàn toàn ngập dưới nước. Ba giờ sáng, nước bắt đầu lên. Tám chín giờ thì ngập hết các phòng làm việc. 11 giờ nước ngập  đến ngực ngay trong văn phòng. 20 giờ,  có lệnh tất cả cán bộ, công nhân, sinh viên… chuẩn bị sẵn sàng lên đê chống lụt

Hôm sau, loa phường cho biết nước sẽ lên cao hơn tháng 8 năm 1969. Đúng như dự đoán , nước cao hơn năm 1969  trên 30 cm. Và còn đang lên cao nữa. Mình vừa lội một mẻ nước lút cổ mà chẳng làm được gì vì nước cuốn quá mạnh. Rét quá, phải về nhà thay quần áo rồi lại đi vội, mong cứu tủ sách bổ túc văn hóa và tủ sách công đoàn.

Ngày 20, ba lần ngâm nước quần áo không kịp khô. Lần thứ hai mặc quần đùi ướt, cởi trần khoác áo mưa đi xe đạp 6km về nhà. Rất may là lấy được gói quà để ở chỗ làm chờ người lên Thác Bà là gửi cho bà. May thay tối hôm trước, anh Nguyễn Văn Tình con nuôi bà từ Thác Bà về tá túc tại nhà, nhờ anh đem lên là tiện hơn cả. Bốn lần ngâm nước, hai lần bị nước cuốn đi mới lấy được gói quà nhỏ này. Nước vẫn lên nhưng chậm dần.

Sắp ăn cơm chiều thì em Nhàn, cháu Ngọc từ Mộc Châu về nhiều chỗ đường ngập, phà không dám chở phải đi vòng đến Hòa Bình lại phải đi vòng thêm hàng chục km. 10 giờ, 11 giờ, 12 giờ đều thông báo. Bộ tư lệnh thủ đô cho bắn pháo sáng khu vực cầu Long Biên hỗ trợ hộ đê. Trời đầy mây, không mưa. Đêm mát. Mờ sáng đã thấy trời xanh, mát mẻ, thanh bình.

Hôm sau 8 giờ sáng nước đã lên đến 13, 78 cm, cao ơn năm 1969 khoảng 60 cm. Đã mở ba cổng cho nước tự do vào đồng như Phùng,v.v… Chiều qua, xuống Thanh Trì vào nhà chị Vương Tửu ở trong đê. Những chỗ đê mới đắp, đất còn xốp nước đã mấp mé bằng mặt rồi.  Nước sông cao hơn mặt đường nhựa trên đê có đến 1m . Thuyền bè nổi lềnh bềnh rất kỳ lạ, người ngồi trên thuyền cao hơn người ngồi trên xe đạp. Dân ngoài đê đã chạy vào làm lều, dựng túp ở tạm ngay trên mặt đê bên lề đường nhựa. Trong  những túp lều lụp xụp làm vội bằng bạt, giấy dầu, đông chật những người là người, trẻ con lố nhố ngồi trên giường, đàn ông tiếp tục đi cứu đồ đạc còn lại trong nhà. Họ dỡ mái ngói, cưa rui mè vào nhà lẩy ra hàng thúng quần áo ướt đẫm. Trời lại nắng gắt, càng về chiều càng nắng hơn. Những vũng nước mưa lầy bùn của những trận mưa trước đã khô cong. Nhưng trên mặt đường vẫn đầy nước, có chỗ chảy thành dòng như máng nước mưa. Nước đã ngấm qua các con trạch bên đường chảy vào ngày càng nhiều,  nhưng vẫn là nước trong chứng tỏ là nước ngấm rất chậm và ít nên chưa cuốn theo đất, chỉ qua các kẻ hở rất nhỏ. Có người lo quá hoá quẩn, dỡ ngói nhà rồi cho lợn lên thuyền chở đi gửi trong khi đồ đạc thì chẳng cứu được gì. Mà bản thân thì cứ ngồi trơ trơ trên nóc nhà giữa bể nước cuồn cuộn. Bà cụ sinh ra chồng chị Tửu đã ngót 80 tuổi bảo chưa  năm nào nước to như năm nay. Các nhà hàng xóm trong đê đều chuẩn bị chạy nước, chặt hết chuối đóng bè, lỡ có làm sao cứ cho lũ trẻ lên bè đã.

Sáng nay, em Thân nói có lệnh huy động toàn thể cán bộ công nhân viên chức nhà nước tập trung tại trụ sở từ 5 giờ sáng để sẵn sàng chờ lệnh cứu đê Hà Nội, yêu cầu nhân dân Thủ đô chuẩn bị lương thực, v.v… đề phòng tình huống xấu nhất. Cô Tiến vợ anh Nguyễn Huy Sính ở nhà ngoài cho biết đê Thường Tín quê cô vỡ rồi… Trời vẫn nắng, mây trắng mỏng bay nhanh trên nền trời xanh ngắt.

8 giờ ngày 22/8 đã tận tai nghe hai lần lệnh của ủy ban phòng chống lụt bão. Lệnh nhấn mạnh, trật tự đường phố  phải được giữ vững, hạn chế đi lại trên đường, tạm đình chỉ mọi hoạt động văn hóa vui chơi giải trí. Trẻ em không được ra đường.

Chiều 25/8, nước đã xuống khá nhiều, khoảng 2m gì đó. Cảng và nhân dân ngoài đê đang cọ rửa nhà, thu dọn chuẩn bị trở về. Tuy vậy, các lực lượng chống lụt vẫn củng cố đê, phá những chỗ đắp vội đắp dối mấy hôm trước nước lên nhanh quá, nay đắp lại cho thật đúng kỹ thuật. Xe ô tô chở bia hơi lại ra bờ sông bán lẻ phục vụ chống lụt.

Như vậy là đợt lụt này chỉ đúng có năm ngày. Chỉ năm ngày thôi mà đã tàn phá cả những cơ ngơi cả đời người mới tạo dựng được. Đê Gia Lâm vỡ các xã Trung Màu, Phù Đổng đều ngập cả. Lại là những nơi đông bộ đội thanh niên xung phong thương binh an dưỡng.

Sáng nay, đang dọn dẹp, thấy mưa nhỏ thôi mà người dân đều lạnh cả gáy sợ nước lại lên to. Trên đường về, thấy ở tường các nhà dọc đường có dán rất nhiều chỉ thị đặc biệt của Thủ tướng chính phủ về việc bảo vệ đê Hà Nội chống lũ lụt. Nhưng sinh hoạt thường lệ đã trở lại thành phố. Các xe con chở rau vào bán ở chợ, tiểu thương cũng không còn hét giá trên trời nữa. Tình cờ, gặp Nguyễn Văn Quảng ở xí nghiệp Nam Thắng láng giềng với cảng mình đang canh đê. Quảng hỏi mình có ý định viết gì không. Chắc đây lại là câu hỏi của nhóm ba người Quảng, Hải, Thái mê viết hay tìm gặp mình. Bèn đáp chỉ sợ không viết được. Lại hỏi vì sao. Đáp vì dốt quá. Cậu ta còn cố gạn thêm xem còn vì gì nữa không. Mình giữ nguyên ý kiến, rồi nói là nếu như tôi thấy mình chưa thể góp được một tiếng nói mới thì tôi chưa viết. Vì đã có 100 bài viết tầm thường rồi làm người đọc hằng ngày phải bận mắt thì việc gì tôi phải đóng góp bài thứ 101. Tôi chỉ quyết tâm đạt được cuộc sống thật trong sạch giữa lòng nhân dân, ghi nhận tất cả những gì nhân dân mong muốn, cảm động tin tưởng.

Chiều qua, anh Lê Văn Lâm, cán bộ nông trường Mộc Châu nghỉ tạm ở nhà mình để đi khám bệnh. Vóc người to cao, đen trùi trũi. Trước có bị lao sau khỏi, tưởng đã lành hẳn nên ít để ý. Làm việc khỏe, rượu ai mời cũng uống còn mời lại. Thuốc lá cũng hút luôn miệng vì Mộc Châu lạnh. Gần dây, vợ lên, phải lo dựng nhà đúng lúc công tác nhiều lại ho ra máu. Rất có thể phải nằm lâu dài ở bệnh viện A. Mình coi đây là một lời cảnh cáo nghiêm khắc với mình, từng ho ra máu nhiều từ những năm đầu 1960. Không muốn lấy vợ. Muốn dành cả đời mình để làm việc, làm việc và làm việc. Tài hèn, sức mọn, chỉ có một tấm lòng thành thôi thì vị tất có hy sinh cả cuộc đời sẽ làm được gì có ích cho nhân dân, đất nước. Từ ngày hiểu ra, cuộc đời mình đâu còn là của riêng mình nữa.

Bỗng nhớ tới cô bạn nhỏ mê sách. Rồi cô cũng đến khổ thôi, chỉ vì không chịu yên phận sống như những người con gái khác.

Trời mát. Mây trắng phủ kín bầu trời.

Luong thuc ban in roneo

Ngày 27/8, mưa nhỏ, nước sông lại lên. Máy bay ta vẫn tiếp tục đi thả bánh mì xuống các vùng lụt nặng để cứu đói. Nhiều người nhịn đói khát ngay trên nóc nhà mình. Thế mà vẫn có bọn người khỏe mạnh đi thuyền nan chèo nhanh đi cứu lợn xổng chuồng của các gia đình bị lụt để giết đem bán ở ngay vệ đường. Nghe nói Hải Dương vẫn ngập cả tỉnh, ở khu vực Yên Viên, vớt được đến 17 xác công an áo vàng. Công tác cứu dân vẫn tiến hành khẩn trương bằng tàu bay ca nô cùng đủ mọi phương tiện thô sơ. Lại có lệnh huy động đi hộ đê. Mình quị hẳn, phải nằm nhà, uống thuốc xông và đọc sách. Sốt ruột quá, số sách mới cứu được hôm qua phơi phóng đã hơi khô sẽ lại bị mưa ướt mất. Đấy là sách dành cho giáo viên, chuẩn bị năm học mới. 30/8 thì cứu xong sách, lại đem phơi. Mặc dù nước tiếp tục lên. Càng ngày càng nghe nhiều tin thiệt hại về người và của do lũ lụt gây ra. Chiều nay, máy bay bà già và bốn cánh quạt bay suốt. Những người chống lụt ở bờ sông Hồng cho biết đó là máy bay đi thả bánh mì đựng trong túi ni lông, kèm theo là cái giấy nhỏ in rônêô và một lá thư của Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi đồng bào bị nạn. Các khu phố ở nội thành đang quyên quần áo, đồ gia dụng gửi đồng bào bị lụt.

Sau một ngày mệt nhọc cứu sách, mình đến 11 Ngô Văn Sở tìm cô bạn nhỏ mê sách cho tâm hồn thư thái. Tôi đùa: dịp này những người thích lụt như cô được một phen thú nhé. Tôi định đến dẫn đi thăm bà con bị lụt một chuyến để nghe họ kể xem lụt thích như thế nào. Cô cười rất chân thật: không bây giờ thì không dám thích lụt nữa rồi. Mà sao lâu lắm rồi anh mới đến đây. Có lẽ đến một năm cơ đấy… Đúng là suốt cả tháng lụt tôi không ghé thăm cô. Không ngờ tháng ấy dài đến thế! Khi ra về, tôi hẹn sẽ tặng cô quyển Một anh hùng thời đại của Lecmantốp để thưởng vì đã không thích lụt nữa.

Sáng 1/9/1971 nghe đài đọc xã luận báo Nhân Dân mở đầu bằng câu Nước đã rút… Nước có rút thật, nhưng rất chậm, ở đê vẫn tiếp tục đắp thêm và củng cố những chỗ đã đắp. Cả ngày hôm nay, các hợp tác xã điện, kim khí đều đan rọ bỏ đá chống lụt. Hiện giờ, vườn hoa, đường phố rất nhiều nơi mắc đèn điện rất sáng, tiếp tục đan rọ dây thép to. Cuộc chiến đấu chống lũ lụt vẫn tiếp diễn. Đoàn Di cho biết mất 50 ngàn mẫu lúa. Tình cờ ghé hiệu sách, gặp anh Vũ Ngọc Tuyền. Anh là chỗ quen biết với các cô bán sách nên mua dễ dàng cho mình hai cuốn Pie đệ nhất (tập I) của A.Tôn-xTôi. Tối, mình đem đến cho cô bạn nhỏ một cuốn kèm cuốn của Lecmantốp để thưởng như đã hẹn. Nhưng không gặp, đành gửi bạn cùng phòng. Ra đến cổng mới gặp cô đi làm về. Mắt đen to và lông mày rất rậm.

Mồng hai tháng chín năm nay không nghỉ, không tổ chức vui chơi, các cơ quan, xí nghiệp không thắp đèn trang trí để tiết kiệm điện. Những quyết định lạ đời, trái lệ thường như thế lại được toàn dân cho là phải, là tất nhiên.

Sáng nay, một máy xúc đã ủi bằng con trạch đắp ngang đường vào cổng cảng, lối ra sông. Thế là ta đã thắng trận lụt khủng khiếp, sẽ chẳng ai quên.

Chủ nhật 5/9, đã đọc xong Pie đệ nhất (tập 1), ba anh em Đại, Thành, Thân cùng thống nhất là từ nay sẽ sống theo kiểu Đức cả tuần làm việc, học hành quần quật để tối thứ bảy thì nghỉ ngơi, vui chơi, ngày chủ nhật ăn ngon, nghỉ ngơi và lao động chân tay. Điều cuối này mình thêm, khác hẳn kiểu Đức.

Hôm nay đã làm xong một tầng nữa của… chuồng gà. Bây giờ lo học để tối còn Tử viết, Thi vân, đi học chữ nho.

Hôm nọ gặp bạn Lê Thế Long, Long trách ít lại chơi còn chê là lười viết. Có lẽ lười viết mà mình đã cùn đi nhiều, không hiểu đã gỉ như cái cày bỏ xó của La Fontaine chưa. Mình đã hẹn với Long là mỗi tuần sẽ gặp nhau một tối cùng bàn bạc về đề tài, khi viết xong sẽ cùng xem lại sửa chữa. Long có nhiều mối ở các báo thiếu nhi và đã tiêu thụ cho mình được một số bài ngắn.

Tối 17/9, trời đang mưa tầm tã, như giông, như bão rớt. Thân đi học, Nhàn đi đắp đê thế là bị ướt cả. Còn mình thì nằm nhà sốt nhẹ. Mình biết lý do của cơn sốt này. Hôm qua không sốt, nhưng hôm nay buổi trưa phải chủ trì một cuộc họp, chiều lại lên khu và tạt qua tòa soạn báo Nhân Dân do Ngô Lê Dân, bạn bán báo cũ nhắn.

Dân cho biết anh Thép Mới đã ra Bắc được mười hôm, nhưng còn an dưỡng và thuộc diện trung ương quản lý, chưa biết sẽ về đâu. Mình gợiNgo Le Dan 2 ý Dân là anh em nên đến gặp anh, sắp đến ngày 19/11 là ngày đầu chúng mình bắt đầu vào đời bằng nghề bán báo… Mau thật, đã 19 năm rồi. Mình cũng tâm sự với bạn là lâu nay lãng phí nhiều năng lực quá. Làm nhiều, học nhiều mà vẫn thấy còn có thể làm được nhiều hơn. Tóm lại là khá bế tắc. Muốn được những người hiểu và có kinh nghiệm góp ý cho, do đó mong gặp anh và các bạn cũ. Dân còn góp ý về việc vợ con. Mình đành phải kể sơ qua về mối tình đầu lẩm cẩm không đi đến đâu và nói ra điều mình nghĩ lâu nay: chưa nên lấy vợ, vì chưa phải là con người hoàn chỉnh, tất cả còn đang ở giai đoạn phát triển. Ai yêu mình bây giờ vị tất sau này sẽ còn yêu mình. Mình có yêu ai bây giờ vị tất sau này vẫn cứ yêu người ta mãi mãi. Hơn nữa, không nên làm khổ bất cứ ai bằng cách trói buộc đời họ vào cuộc đời nặng nề  của mình. Một mình mình sẽ chịu đựng được tất cả dễ dàng hơn, sẽ cứ vẫn vươn lên, vươn lên mãi.

Cơn sốt buổi chiều đang buộc mình phải nằm nghỉ. Hôm nay bận, chưa tiêm Strepto được. Mấy ai gặp được một Hứa Quảng Bình như Lỗ Tấn.

Sáng 22/9, em Nhàn đi Mộc Châu mang theo cháu Ánh Hồng con thứ anh Đại để chuẩn bị cho chị Thủy đi mổ. Mình bàn với Thân, Nhàn sẽ thắt lưng buộc bụng hơn nữa, ai cũng cố gắng làm thêm nghề phụ để cắt hẳn phần đóng góp của anh Đại.

Mấy hôm nay, trời nắng đẹp, gió quẩn rất nhiều, nhưng ngay cả những đám mây mỏng trên trời cũng không di động chút nào. Bây giờ mới thật là mùa thu. Đêm ngủ ngon. Về sáng đã phải đắp chăn đơn rồi. Tối hôm qua, hôm nay và sáng mai, đại hội công nhân viên chức bất thường của Cảng họp. Bộ Giao thông vận tải đã công bố bản báo cáo kiểm tra các vụ tham ô ăn cắp. Thật ra cuộc đấu tranh rộng lớn bây giờ mới thật sự bắt đầu… Toàn cảng bây giờ vẫn bao trùm trong một không khí uể oải, không ai muốn làm việc, chỗ nào cũng túm năm tụm ba bàn tán, tranh cãi. Một anh công nhân bị bệnh thần kinh cứ đi đi lại lại trước phòng làm việc của bộ tứ Cảng nói rất nhiều lần câu Đánh gục mặt chúng nó xuống. Chỗ nào cũng đầy bụi than, bụi phù sa, chỉ chờ chút gió là bay lên mù mịt. Máy phóng thanh bị ẩm trong thời gian lụt, nay đang còn sửa chữa, các loa đều im ắng. Cảng im lìm như sắp chết… Những ngày khám bệnh, người đến khám rất đông, quá đông. Số rất lớn, không có bệnh, nhưng chán nản không muốn làm việc nên thác bệnh xin nghỉ cho phải phép… Đang có dịch đau mắt đỏ mà y tế thì hết thuốc phòng và hoàn toàn không có bông. Tối 20, bắt đầu năm học mới, hai lớp 7 chỉ có khoảng 10 người. Người học đến lẻ tẻ như chẳng ai đến để học cả.

Mình vẫn sốt, vẫn đi làm, đi học, vẫn phải lo từ ngọn rau, giọt dầu, khâu vá quần áo, dọn dẹp nhà cửa. Thế mà vui. Vì cuộc đời thật vốn như thế.

Sáng 24/9/1971, Đại hội công nhân viên chức bất thường Cảng Hà Nội đang họp, đại biểu đang tranh nhau phát biểu thì ông Điệt thứ trưởng Bộ xuống dự. Như được tiếp thêm sức mạnh quần chúng công nhân cán bộ càng hăng hái đứng lên vạch mặt bọn tham ô ăn cắp có chức có quyền. Độc đáo nhất là trường hợp bác Nguyễn Văn Lượng chột mắt. Bác là công nhân bốc xếp lâu năm, mới học hết lớp hai, đọc không thông viết chưa thạo. Bác được bầu làm ủy viên Ban chấp hành công đoàn Cảng, thư ký công đoàn đại đội Nguyễn Văn Bé tức đội 3 trước đây. Bọn lũng đoạn Cảng đưa bác lên chủ tịch đoàn để làm vì: họ thừa biết tính bác vốn hiền lành, nhút nhát, hay xuê xoa dĩ hòa vi quý. Nhưng, sáng nay chính từ chủ tịch đoàn này bác Lượng đã đứng lên tố cáo tội ác của chúng với quần chúng lao động Cảng từ nhiều năm nay. Đúng là hòn đất mà biết nói năng… Công nhân vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt từng lời bác Lượng nói. Bác lúng túng im lặng ngồi xuống giữa tiếng vỗ tay rầm rộ. Trưa về cùng đường với bác phó giám đốc Nguyễn Văn Tuân và anh Trịnh xưởng phó xưởng sửa chữa, trò chuyện rất vui. Khí thế quần chúng khá lắm. Những kẻ cầm đầu như giám đốc B., phó giám đốc N., T. đã bị vạch mặt, thất bại thảm hại. Chiều nay đại hội sẽ thông qua một quyết nghị hết sức quan trọng, mở đường đến thắng lợi hoàn toàn. Tối nay, bọn chúng tha hồ cắn xé nhau. Còn quần chúng sẽ vui mừng đón quyết nghị của đại hội. Một giai đoạn mới sẽ bắt đầu ở Cảng Hà Nội. Mình vui quá, cũng tìm người chia sẻ. Lại đến nhà cô bạn nhỏ mê sách. Định bụng báo tin vui xong là về ngay để bác già còn đi họp phụ lão. Nhưng vừa gặp, cô bạn trách ngay anh lâu quá không đến, hôm nay có ngồi được lâu không. Rồi đem rất nhiều bánh bít qui và nước ra mời. Hơn một giờ sau mới về nhà. Anh thấy không, những người phụ nữ viết văn hình như đều có một trái tim cứng rắn, cứng rắn hơn cả đàn ông nữa kia. Như Panova Nicôliêva và nhất là Đêgớc, cứng rắn đến lạnh lùng. Cô tự nhận là cứng rắn à? Thà thế còn hơn là thích thú với sự yếu mềm của mình.

Có một cô bạn nhỏ như vậy thật là thú vị, tất nhiên không phải khi nào cũng dễ chịu cả. Cô khác người quá. Hai người cùng khác người thường lại khó hòa hợp với nhau, rất khó chung sống hòa bình…

Cơn bão số 12 đã ảnh hưởng đến Hà Nội, mưa tầm tã, gió, trời trở lạnh. Mình đau tất cả các khớp dữ dội. Sao mà con người ta có lắm khớp thế. Cái xương sống rất dài của mình toàn khớp là khớp.

Mưa rất to, nhưng các lớp vẫn học được. Học viên đông hơn hôm khai giảng nhiều. Học hào hứng lắm. Mình giảng một tiết địa, môn học anh chị em rất ham thích, cứ muốn học thêm, mặc dù đã hết chương trình. Tan học, mưa dữ. Chân càng đau, đành đi bộ về ngủ ở buồng Nguyễn Tiến Chung. Tấm ni lông phòng thân của tôi ngắn quá, gió sông lại mạnh, áo quần ướt gần hết, mỗi bên ủng cũng chứa đến lít nước mưa. Suốt tối và đêm qua khốn khổ vì khớp. Sáng dậy, về nhà ngay, thay xong quần áo là nằm vật ra giường. Bác già mua cho cháo nóng. Cháu Ngọc đun nước pha trà, một lúc mới hồi.

Uống Salamid, nhất là Prednisolonc, rất hiệu nghiệm.

Bệnh tật nhắc mình phải tập trung toàn bộ tinh lực để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đời mình. Không được lãng phí dù chỉ là một hơi thở. Sáng 6/10, đi chiếu điện, rồi lại chụp điện, ngày 9 mới có kết quả, nghe mà hoàn toàn dửng dưng, làm sao cũng chẳng làm sao, dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.

Ngày 12/10, kết quả chụp điện không xấu vẫn là do lao màng phổi. Bác sĩ dặn những khi trở trời anh sẽ vẫn bị đau mãi thôi. Còn khỏe thì chẳng bao giờ khỏe đâu. Khi nào mệt quá thì anh nghỉ…

Nhớ lời thơ Tư Mã Thiên Núi cao ta trông, đường rộng ta đi / Tuy đích chưa đến, nhưng lòng hướng về.

Vừa thi xong khóa học Pháp văn 6 năm, tự cho phép nghỉ ngơi, đạp xe lên Sơn Tây thăm Vũ Văn Chỉ, chú em thân thiết của mình. Tối thứ bảy đi, trưa chủ nhật về. Mừng là vẫn tìm được Chỉ, vẫn chân thành chất phác như xưa, chưa đến nỗi tệ như bà chị ở Bò Đái Yên Bái nói với mình dạo nào. Có điều lạ là lần này toàn gọi mình là anh, không mày tao như trước. Tìm lại được Chỉ, không mất một người anh em, có lẽ đó là điều vui nhất trong năm nay.

Giữa tháng 11, nhà mình toàn người ốm. Mẹ ốm, cháu Ánh Hồng bé xíu ốm nặng, Ánh NPham Duy Phunggọc lớn hơn ốm nhẹ, chị Thủy mổ xong đi an dưỡng, Nhàn cúm, Thân lao màng phổi bắt đầu vào bệnh viện. Anh Đại nghỉ làm vào viện nằm trông Ánh Hồng. Ngày ngày mình đưa cơm vào cho anh, mang quần áo về nhà giặt, đón cháu Hải đi học về. Bận và càng túng tiền. Ngày 26/11 Ánh Hồng và chị Thủy mới ra viện. Hải cũng nằm viện một tuần rồi. Mẹ và bác già cũng ốm nằm nhà và vẫn làm việc. Chỉ còn mình là …. người khỏe. Chiều nay sẽ đưa cái ăn vào cho Thân, rồi cho Nhàn. Bất ngờ, trưa Phạm Duy Phùng ghé nhà báo tối nay lại nhà anh Thép Mới họp mặt. Thứ tư tuần trước bọn bán báo chúng mình đã tập hợp đến thăm anh nhưng anh đi vắng. Sáng thứ ba 22/11 đi làm về mình tình cờ ghé nhà phố Nguyễn Lai Thạch gần Lò Lợn thì lại gặp anh. Anh hốc hác, má hóp, đen xạm, mắt như mắt voi vẫn chăm chú vui vẻ nghe mình kể cuộc sống công tác những năm qua, còn khen Cái tốt nhất là những năm qua mày đã đứng vững đã vững vàng trong cuộc sống… Bây giờ, tao chưa về cơ quan chưa nắm cái gì cả, nhưng không ai nỡ để lãng phí những khả năng có ích. Anh bảo mình tiếp tục trau giồi tiếng Pháp, ra sức kiên trì học Hán văn… Đừng học Nga văn như đã định. Chắc là anh có ý định giúp mình, không muốn mình phân tán sức lực. Mình nghĩ rất cảm ơn anh nhưng em sẽ vẫn cứ học Nga văn, còn sự giúp đỡ cụ thể trước mắt của anh, chưa chắc em đã nên nhận. Dạo ấy mình tự tin quá đáng như thế!

Tối họp mặt ở nhà anh Thép Mới. Anh gầy, đen. Cả bọn quây quanh bàn trà . Chị Cung Kim Châu nhỏ nhắn đun nước bằng bếp dầu có bình dầu Thep moithủy tinh cao bằng mặt bếp. Các bạn gom tiền, miễn cho mình dân nghèo ven sông, nhờ chị Lân vợ ông Hà Xuân Trường là cán bộ cao cấp mua được nhiều bánh kẹo ngon mình chưa được ăn bao giờ. Cũng như lần 10 năm ở nhà Nguyễn Văn Bào, mình chỉ ăn, uống, nghe và gần như không nói gì, vì những điều cần nói đã nói cả với anh Thép Mới rồi. Từ hồi 18 tuổi, làm bí thư chi đoàn, hầu như ngày nào mình cũng gặp anh ít nhất một lần. Mình bảo gặp may, vào đời bằng việc bán báo với học sinh Hà Nội quả là một cuộc cọ sát mạnh. Làm bật ra mọi thói hư tật xấu của từng người. May là đụng rồi lại được đàn anh có tâm, có tầm phân tích chỉ bảo cho từ đường đi nước bước chập chững vào đời, thì còn gì quí hơn. Lắm hôm tôi đến số 10 Ngô Văn Sở, anh bảo chị Châu hôm nay cậu rửa bát nhé, tớ phải đi với cậu này. Rồi vào nhà lấy cái quần treo trên mắc mặc vội. Không là đã lâu.

Tối 30/11, ngồi tính việc chi tiêu tháng 12, nát cả óc, tiền ăn còn không đủ lấy đâu ra tiền mua thuốc, may mặc và cho cháu Hải đi học trường Mầm Non. Đã ghé trường Hải hỏi thì biết là từ tháng tới mỗi tháng sẽ phải nộp 13 đồng và gạo. Hôm họp ở nhà anh Thép Mới xong Đỗ Quảng về cùng đường gợi ý việc viết tin cho báo Nhân Dân để kiếm tiền. Thân sẽ còn nằm viện khoảng chín tháng nữa. Mình nhận gánh nặng gia đình nhưng không biết có gánh nổi không. Đọc nốt quyển Madame Bovary (Bà Bôvary) mới mượn được này xong sẽ lao vào chiến dịch… viết để kiếm tiền. Bắt đâu sự nghiệp văn chương như thế thật tội nghiệp. Biết làm sao! Viết hai mẩu bàn chuyện xây dựng nếp sống mới gửi báo Hà Nội. Sẽ viết cho Lao Động. Tất nhiên cả Nhân Dân, có tay trong mà.

Ngày 4/12, thử máu, mới lấy 1,5cc đã ngất, cấp cứu. 6/12, kết quả Bilirubin 11,996mg/l. Cho nghỉ năm ngày.

Tối 7/12, đến để vĩnh biệt cô bạn nhỏ. Cô vui vẻ nói rất nhiều điều vớ vẩn như mọi khi, vì tưởng sẽ còn nhiều dịp gặp gỡ. Cô còn quá trẻ, còn đùa với cuộc đời, chưa hiểu gì cả.

Cái đau, dù lớn đến đâu mình cũng có thể chịu đựng được một mình, không cần san sẻ với ai. Chỉ khổ nhất khi thấy người khác vì mình mà khổ. Nhất là người mình yêu quí. Thế thôi. Ngày 10/12 cậu Khuê biên cho một lá thư và kê cho một đơn thuốc. Thư viết Vì sức khỏe có hạn cho nên cần tránh mọi thái quá. Đơn thì ghi: hạn chế đi lại nhiều. Kiêng mỡ. Mình sẽ kiêng nhịn tất cả miễn là được sống để làm việc. Sáng nay lại tiếp tục đưa cháu Hải đi học trường Mầm Non. Dù sao cũng phải bảo vệ, chăm sóc những mầm non của đất nước chứ.

Thế là hết năm ngày nghỉ. Định làm mấy việc đều không làm được, đúng là nghỉ ốm. Thân vừa ghé về nhà, khỏe ra, cứ ngạc nhiên mãi là tại sao anh không bị mà lại là em. Em chưa biết gì hết. Anh Đại chuyển thư cậu Khuê mới biết mình còn nguyên bệnh cũ mà còn thêm một bệnh mới về gan.

Sáng nay, 13/12 ra hiệu sách gặp bạn Lê Thế Long. Bạn nói vẫn khỏe nhưng mặt vêu ra, ở hàng ria mép hơi dài đã lởm chởm nhiều sợi bạc. Long cho biết cộng tác chặt chẽ với báo Thiếu niên Tiền Phong, đăng cả truyện ngắn, câu đố.. Mình nhận viết một bài về ảo thuật, sẽ đưa Long ngay ngày mai. Trưa 12/12, ở Cảng đã chính thức công bố kỷ luật những kẻ tham ô ăn cắp chủ yếu, kể cả những người bao che cho họ. Cuộc đấu tranh quyết liệt hơn hai năm qua đã thu được kết quả bước đầu. Một cuộc cách mạng mới xây dựng sẽ bắt đầu. Sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì dù sao cuộc cách mạng vừa qua cũng chỉ là phá bỏ cái cũ, có tính phá hoại, mà phá thì bao giờ cũng dễ hơn xây dựng nhiều.

Chiều 24/12, bà cô em bố mình lên Mộc Châu giúp em Nhàn đã đưa cháu Hà (tức Minh Tuấn) hai tuổi về Hà Nội tránh rét. Ngày 25, đưa các cháu và bà cô đến thăm anh Đại, cậu Khuê em Thân. Đến nhà cậu Khuê vớ được tạp chí Pif đọc vội cách làm máy chiếu phim đơn giản, để có cái viết nộp Long kiếm tiền. Một tối, mình đi tìm tài liệu, trước khi đi bế cháu lên để Hà nghiêng đầu cho mình hôn vào cái má đỏ hồng phinh phính của cháu. Cháu hỏi bác đi mua kẹo à. Mình định nói là không phải nhưng rồi lại nói: Đúng là đi để rồi mua kẹo cho cháu. Cả nhà và Nhàn đều hiểu câu nói đó.

Báo ngày 31/12/1971 đăng tin giặc Mỹ lại ném bom Thanh Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) nơi mình sống năm 1968 mà Hà Nội thì thanh bình quá. Quần áo, vải vóc là những đề tài nhiều người bàn tán nhất, cuối năm rồi còn gì.

Mình ho nhiều, mệt quá chừng, chỉ làm được những việc lặt vặt trong nhà. Chiều nay, em Thân sẽ ra viện chuẩn bị đi an dưỡng.

Đã gặp anh Thép Mới, đã được anh và bạn bè đồng đội cũ góp nhiều ý kiến hay, cũng biết rõ tình hình sức khỏe và hoàn cảnh kinh tế, sức khỏe cả gia đình, thế là đủ dữ liệu để quyết định hướng đi tới. Nhưng đi đâu, khi nào, bằng cách nào, đến bây giờ vẫn chưa rõ. Chỉ biết mình đã sống tận tình tận nghĩa với Cảng. Bây giờ cần đến nơi có thể đóng góp được nhiều hơn cho nhân dân, cho Tổ quốc với những năng lực đã học tập tích lũy và thử thách suốt những năm qua. Có thể yên tâm ra đi mà vẫn giữ liên lạc mật thiết với cảng thân yêu, nơi đã gắn bó với cả một đoạn đời thanh xuân đầy kỷ niệm trong cuộc sống mình.

Ngày 11/5/2019 tại thành phố Hồ Chí Minh.

P.T.

Tháng Ba 26, 2022

Nửa giờ với cựu thủ tướng Phạm Quỳnh

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 4:20 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười bốn, kỳ 1 tháng 4 năm 2022.

NỬA GIỜ VỚI CỰU THỦ TƯỚNG PHẠM QUỲNH

Thanh Tịnh

Lời dẫn của Phạm Tôn: Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan về Huế, vừa gởi cho chúng tôi bài này. Trong Từ điển văn học bộ mới của nhà xuất bản Thế Giới năm 2014, mục từ Thanh Tịnh từ trang 1635-1636 viết:

“(12.XII.1911-17.VII.1988), Nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Các bút danh khác: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trịnh Thuần (sau 1945). Tên thật Trần Văn Ninh. Từ sáu tuổi, được đổi là Trần Thanh Tịnh. Nguyên quán: xóm Gia Lạc, ven sông Hương, ngoại ô Huế. Nguồn văn nghệ dân gian phong phú của Thừa Thiên – Huế đã sớm ảnh hưởng đến ông. Phần lớn thơ văn của ông đều bắt nguồn từ giọng hò câu hát trên sông nước quê hương. Thanh Tịnh được học chữ Nho đến 11 tuổi, rồi tiếp tục học tiểu học và trung học ở Huế.

Khi đi học ông đã ham thích văn chương. Hai nhà văn Pháp nổi tiếng Đôđê và Môpaxăng có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh Tịnh sau này. 1933, đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn làm thơ và cộng tác với các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị… sáng tác đầu tay: Cha làm trâu, con làm ngựa (Thần kinh tạp chí, 1934).

Ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và Sinh, 1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Tập thơ Hận chiến trường (1937) và nhiều bài khác đăng trên các báo ở Huế và Hà Nội mang phong cách lãng mạn đậm nét. Thơ ông, trong những bài tiêu biểu nhất như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm tiếng, Rồi một hôm, Muôn bến… thường mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Thành công hơn cả trong chặng đường sáng tác này là các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) trong đó có nhiều truyện đẹp, trong sáng và gợi cảm.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ. Gia nhập bộ đội 1948, tham gia phụ trách Đoàn kịch Chiến thắng của Bộ Tổng tư lệnh Quân độ nhân dân Việt Nam. Trong kháng chiến, ông khai sinh ra hình thức độc tấu. Nghệ thuật trình diễn độc đáo này rất được phổ biến trong nhân dân. (…)

Từ năm 1954, tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông viết nhiều thơ trữ tình, thơ đả kích, ca dao, độc tấu, nhận xét nhỏ, hồi ký… đăng trên các báo Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Phụ nữ, Tiền phong, Tổ quốc, Thiếu niên tiền phong, v.v… Tác phẩm chính sau cách mạng: Sức mồ hôi (thơ, 1954), Những giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956), Đi từ giữa một mùa sen (truyện thơ, 1973), Thơ ca (tuyển tập, 1980)…Thơ của ông giai đoạn này có sự chuyển biến rõ rệt. Do có nhiều gắn bó với nhân dân, ông phấn đấu “ước gì để lại mùa sau/ Một câu một chữ đậm màu dân gian”. Ông viết nhiều ca dao, một số bài rất quen thuộc với người đọc (Nghe lThanh Tinhời Bác dạy, Sức mồ hôi, Dân no thì linh cũng no…). Mảng thơ trữ tình của giai đoạn này nhìn chung không trội. Ông viết thiếu lắng đọng, tinh tế, trừ một số bài đã kế thừa, phát huy một cách tích cực phong cách lãng mạn, trong phần thành công nhất của chính tác giả trước đây (Nhớ Huế quê tôi, Gặp lại). Truyện thơ Đi giữa một mùa sen gồm tám đoạn, dài non hai ngàn câu, kể về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh từ lúc chào đời đến năm 15 tuổi… đây là một công trình lao động nghệ thuật công phu của Thanh Tịnh. Ông sưu tầm tài liệu và viết trong nhiều năm. Tác phẩm viết dưới hình thức kể chuyện, mang đậm phong cách dân gian và hợp với giọng điệu tâm tình của thơ ông.

Tập truyện ngắn Những giọt nước biển phần lớn gồm những bài ông viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Mỗi truyện như một bài thơ nhỏ, ghi lại hình ảnh những người nông dân bình thường miền xuôi cũng như miền núi, gan dạ một cách hồn nhiên, dung cảm một cách lặng lẽ, hoạt động phục vụ sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm.

Nhìn chung tác phẩm Thanh Tịnh đậm chất trữ tình. Thông qua tâm hồn tác giả hiện thực cuộc sống được phản ánh giản dị mà sâu sắc, không phải chỉ ở bề ngoài, mà ở cái linh hồn sâu kín bên trong. Văn Thanh Tịnh gợi cảm, đằm thắm và trong sáng. Như Thạch Lam nhận xét, tác phẩm của Thanh Tịnh “truyện ngắn nào hay đều có chất thơ và bài thơ nào hay đều có cốt truyện”. Thanh Tịnh mất ở Hà Nội.

Trần Hữu Tá

* Bài sau đây đăng trên Việt Nam Tân báo số 33 ra ngày 2 tháng 5 năm 1945 tức là sau cuộc đảo chính Pháp của Nhật và chính phủ Trần Trọng Kim đã thành lập. Chức vụ cuối cùng Phạm Quỳnh giữ trong triều đình Huế là Thượng Thư Bộ Lại, như chức thủ tướng chính phủ.

Bài này góp thêm một chứng cứ khách quan nữa bác bỏ các luận điệu bịa đặt, vu khống nói rằng Phạm Quỳnh “câu kết với Nhật” hoặc “nằm im chờ Pháp đến giải cứu” hòng phục hồi chức vụ và quyền lợi của các kẻ bán nước như một số người đương thời và hậu thế từng đưa ra để “kết tội ông cho xứng với bản án tử hình mà ông đã phải chịu tháng 9/1945”.

—o0o—

Một buổi chiều nắng nhạt trong biệt thự Hoa Đường gần bờ song An Cựu. Tôi đưa giấy nhờ người nhà đem vào để xin yết kiến. Hai phút sau Phạm Tướng công đã lộ hình trong khung cửa giữa. Mắt nhìn vào mảnh giấy, một lát ông nhìn tôi rồi cười hỏi:

  • Anh Thanh Tịnh đấy à? Thế mà tôi nhìn mãi chữ ký không nhận ra.

Tôi không bỏ dịp tốt:

  • Cụ cho biết cảm tưởng của cụ đối với Nội các mới.

Với nụ cười vẫn giữ luôn trên môi ông nói:

  • Cảm tưởng thì tốt lắm. Tôi rất hoan nghênh Nội các mới. Các vị Bộ trưởng mới, phần nhiều tôi đã biết người biết tiếng cả. Riêng cụ Trần Trọng Kim lại nhiều dây liên lạc đằm thắm hơn. Bạn làng báo cũ với nhau kia mà!
  • Thế bây giờ cụ nhất định về tĩnh dưỡng ở đây?

Một cái nhìn tươi mới tiếp theo sau cái vỗ vai thân mật, Phạm Tướng công nói:

  • Vâng, về ở đây để tiện việc tra cứu những sách vở xưa.

Mấy hôm về đây, tôi chỉ bận sắp lại những tài liệu cũ và mấy bộ sách chữ Hán.

Ông vừa nói vừa dẫn tôi đi xem cái thư viện đặc biệt của ông. Đặc biệt vì đó là một phòng làm việc có gần mười cái tủ sách vây quanh. Trong đó sách lớn có nhỏ có sắp đặt rất thứ tự và bìa thì đóng dấu bạc hay chạy chữ vàng đủ thứ.

Ông đưa cho tôi xem mấy quyển sách Ma doctrine (Học thuyết của tôi – PT chú) của A.Hitler và La tragédie de la Jeunesse allemande (Thảm kịch của tuổi trẻ Đức –  PT chú) của Noth, quyển lịch sử duy tân nước Nhật Bản trong 50 năm đầu bằng chữ Hán, và một tập giấy cắt trong nhật trình Pháp bàn về vấn đề Diến Điện và Đại Đông Á rồi quay nhìn tôi:

  • Đến 54 tuổi tôi mới về được với công việc nghiên cứu thích thú nhất của đời tôi. Đấy anh xem tờ Nam Phong xưa có phải là một cơ quan chính trị đâu. Tôi nghĩ văn hóa là căn bản tinh thần của một chủng tộc, cho nên – là một nhà báo, là nhà học giả – tôi phải theo đuổi đến kỳ cùng. Cho đến sau cùng có vấn đề trực trị xướng lên, tôi mới đưa ra đề nghị Lập hiến. Thế rồi sự tình cờ đưa tôi ra làm chính trị. Biết là không phải con đường chính của mình, tôi cũng phải theo. Rồi mấy mươi năm trong bể hoạn, tôi biết rõ nhân tình thế thái lắm anh ạ!

Biet thu Hoa Duong

Câu “biết rõ nhân tình thế thái lắm” ông dấn từng chữ một rồi đưa dài ra nên nghe có vẻ mỉa mai và chua chát lạ lùng. Ngừng một lát để mơ màng nhìn mấy quyển sách mà chừng ông âu yếm lắm ông nhìn tôi rồi tiếp:

  • Anh còn nhớ ngày chúng tôi qua Pháp (chỉ chuyện Phạm Quỳnh tháp tùng nhà vua Bảo Đại sang Pháp năm 1939 – PT chú) không? Để bàn về chuyện Bắc Kỳ đấy. Nhưng qua bên ấy nhằm lúc các nhà chính trị đi nghỉ mát cả. Thế là không biết bàn với ai. Cho đến lúc được tin ngòi lửa chiến tranh sắp bùng nổ là Hoàng thượng cùng tôi và ba người nữa đáp máy bay về nước.

Tôi nhận thấy trong lời nói sau cùng của ông có vẻ ngao ngán buồn buồn. Tôi tự nhiên sực nhớ đến hai câu thơ của tôi:

Như chàng sứ giả chẳng thành công.

Trở lại môn quan ứa lệ lòng.

Tình cờ mắt ông lại nhìn đến mấy pho Kinh Phật, ông liền nói:

  • Trước kia tôi rất ham nghiên cứu về Phật giáo, trước cả hồi người ta lập Phật Học hội khắp ba kỳ. Vì Khổng giáo là đạo nhập thế, Phật giáo trái ngược lại là đạo xuất thế. Còn Lão Tử lại chuyên về mặt tiêu cực hơn…

Thấy ông đi hơi xa, tôi liền hỏi:

  • Cụ cho biết có phải đức Hoàng thượng muốn lưu cụ lại để lập Viện Hàn lâm Việt Nam không?

Lại nụ cười khi trước hiện ra.

  • Đó chỉ là một tin đồn. Sau ngày phục mạng Hoàng thượng để ra về, tôi không xin thêm điều gì cả. Nhọc lắm anh ạ. Tôi phải tĩnh dưỡng nhiều lắm. Vả lại bây giờ công việc chính trị cần hơn vấn đề văn hóa. Miễn sao bổ dưỡng cho thể chất tráng kiện trước rồi đòi hỏi đến thực phẩm tinh thần sau.

Sau một nụ cười khó hiểu ông lại nói:

  • Chúng tôi bây giờ là những cô đào già, ca Nam ai, Nam bằng nhiều lần quá thành nhàm tai nên không ai muốn nghe nữa. Thời đã mới cần người mới để hát những bài ca mới hơn… Nhưng thôi, bỏ những chuyện viển vông ấy đi, tôi đã hiện nguyên hình là nhà báo thì nói chuyện về báo vui hơn. Lúc nào tờ Việt Nam Tân báo cần những người trợ bút không công, tôi sẽ vui lòng giúp quý báo…

Rời khỏi biệt thự Hoa Đường ra về tôi cảm thấy như vừa rời khỏi một thư viện.

Thanh Tịnh

————————————-

Tư liệu do Dương Phước Thu, Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế sưu tầm và chú thích.

Nguồn Việt Nam Tân báo, số 33 ra ngày 2 tháng 5 năm 1945.

Lúc đương chức Thượng thư Bộ Lại, Phạm Quỳnh ở nhà “công vụ”, nơi hiện đóng là Nhà văn hóa thành phố Huế. Nguyên trước là chỗ đất đóng trường Hậu Bổ.

Tháng Mười Hai 9, 2021

Ông quả là Người nặng lòng với nước

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 8:05 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười ba, kỳ 2 tháng 12 năm 2021.

ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC

Phạm Tôn

Lời dẫn của Phạm Tôn: Đó là tên hai bài Phạm Tôn tôi viết gửi dự Cuộc Trao đổi – Ý kiến về trường hợp Phạm Quỳnh – Nguyễn Văn Vĩnh trên tạp chí Hồn Việt (từ tháng 8 đến tháng 11/2008). Bài thứ nhất được đăng trên số 15, tháng 9/2001, nhưng đổi nhan đề thành Ông Phạm Quỳnh quả là người nặng lòng với nước. Bài thứ hai đăng trên số 17, tháng 11/2008, lại được đổi nhan đề là Phạm Quỳnh, cuộc phiêu lưu không tránh khỏi bi đát… Nhưng sau đây, chúng tôi đăng lại nguyên văn hai bài trên theo đúng nhan đề và toàn văn bài đã gửi cho Hồn Việt. Đó là theo đúng lệ của blog chúng tôi: chỉ đăng nguyên văn theo đúng bản gốc, chưa bị ai – ngoài tác giả – biên tập, sửa chữa.

*

*       *

Nhân đọc bài “Ông Phạm Quỳnh và báo Nam Phong” của Đặng Minh Phương (Tạp chí Hồn Việt số 14. Tháng 8 2008)

Nhà báo lão thành Đặng Minh Phương tỏ ra có con mắt tinh đời khi trích dẫn đoạn văn sau đây: “Làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng, món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ là để rồi lấy danh nghĩa chính phủ Nam triều đòi Pháp phải trở lại hiệp ước 1884. Vậy một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua chỉ là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực tình là một người dân mất nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm”. Đó là một đoạn văn có trọng lượng trích trong tác phẩm Đời viết văn của tôi của nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, phần ông viết rõ lý do vì sao ông viết nên thiên kiệt tác Kép Tư Bền: Đó là vì ông thương…Phạm Quỳnh! (Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, năm 1971). Có điều đáng tiếc là nhà báo lại gán đoạn đó cho Phạm Tôn, khiến cho Phạm Tôn mang tiếng “đạo văn” khi ông viết: “ông Phạm Tôn trên báo Xưa và Nay tháng 9-2006 viết” trước khi đưa ra đoạn văn trên. Sau đoạn văn trên ông còn thòng thêm một câu hóm hỉnh: “(xin được lưu ý ông Phạm Tôn là ông Phạm Quỳnh từng nói nước ta còn mà!)”. Quả tình Phạm Tôn tôi thuộc thế hệ sinh sau đẻ muộn, không có hiểu biết, cũng không đủ tầm cỡ để viết những dòng nặng ký như thế… Nhưng nhân được người trên quan tâm như vậy, chúng tôi cũng xin bày tỏ vài điều chân thật, không phải ai cũng biết cả.

Phạm Quỳnh là con nhà nho, cháu nhà nho, chắt nhà nho, mà đều là nhà nho nghèo, loại hàn sĩ cả. Từ cụ Dưỡng Am Phạm Hội (trích Gia phả họ Hoàng Đạo- Phụ: bên ngoại, do rể: Hoàng Đạo Thành bái ghi, môn đệ tử: Tô Ngọc Huê thủ thức, tôn sinh: Ngô Văn Dạng phụng viết, Hoàng Đạo Thúy kính dịch từ chữ Hán) đến ông nội rồi cha đẻ đều dạy học mà không thu học phí, chỉ sống với những gì học trò đem biếu, khi thì thúng gạo, rổ khoai, lúc con gà, con cá, mớ rau. Chín tháng mất mẹ, bà nội và bà cụ tú cho hưởng thừa tự phải bế đi bú chực nhà hàng xóm. Rồi chín tuổi mất cha, gia đình khốn khó, hai cụ phải bòn những quả ổi, quả bồ hòn trong vườn nhỏ sau nhà đem bày bán trước cửa cùng mớ hàng xén lặt vặt để có cái cơm cháo qua ngày nuôi cháu khôn lớn. Sau đó lại lo cháu “Không có cái chữ thì làm sao sống được với đời”, bèn cho theo học trường tiểu học Pháp Việt mới mở ở phố Hàng Bông gần nhà (Hoàng Đạo Thúy: Phố phường Hà Nội xưa, Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2000). Chỉ vì ở đấy học không mất tiền. Rồi tiếp đến lại học Trường Thông ngôn (Collège Des Interprètes) ở bờ sông Hồng, cũng lại vì học ở đấy không mất tiền!

Nghèo khổ như thế lại ham học và có hiếu với hai bà cụ, Phạm Quỳnh chỉ mong cố gắng học để đổi đời, đền đáp ơn hai bà nuôi dạy. Mặt khác “Ông, cha Phạm Quỳnh có liên hệ mật thiết với các tổ chức Cần Vương, Phục Việt chống Pháp đương thời (…) Vì thế, không lạ gì chuyện cậu thanh niên Phạm Quỳnh đã nhiệt tình tham gia ủng hộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tham gia bãi khóa ngay tại Trường Thông ngôn, phản đối đàn áp Đông Kinh Nghĩa Thục, bắt giam các sĩ phu yêu nước đến nỗi đã từng bị Pháp bắt giữ, năm mới 15 tuổi” (Mạc Kinh: Nỗi oan khiên của học giả Phạm Quỳnh, trong tập Giải oan lập một đàn tràng, Cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, phát hành lần thứ nhất tại Hoa Kỳ, 2001). Sau đó được thả ra vì thấy là người không thuộc tổ chức hội kín nào cả (Sự tình cờ của lịch sử đã khiến con thứ mười của Phạm Quỳnh là Phạm Thị Hoàn sau này lại lấy nhạc sĩ Lương Ngọc Châu cháu nội cụ Lương Văn Can vị chủ soái của Đông Kinh Nghĩa Thục).

Năm 1908, đỗ thủ khoa trường Trung học thuộc địa (Collège Du Protectorat) tức trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Phạm Quỳnh được tuyển vào làm nhân viên Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Êxtrême – Orient). Tại đây do yêu cầu công việc, Phạm Quỳnh phải tự học Hán văn đến mức đọc và viết được văn chữ Hán. Trường Viễn Đông Bác Cổ là cả một kho tư liệu sách vở, “kho báu tri thức’ cho chàng trai hiếu học, yêu nước, thiết tha với lịch sử cha ông. Phạm Quỳnh đã tìm trong mớ giấy bản phủ bụi và tìm ra những áng văn thơ yêu nước. Ông đọc, chọn lọc trong sách Lệ ngữ Văn tập rồi dịch ra Pháp văn, đưa đăng trong tạp chí của Trường Viễn Đông Bác Cổ như tài liệu tham khảo lịch sử hai bài của Nguyễn Viết Lụy tế các tướng sĩ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Từ đấy hai bài này mới được người đời biết đến (Hoàng Đạo Thúy: Nhà họ Phạm Lương Đường và chủ bút Phạm Quỳnh, bài viết theo yêu cầu của Viện Văn học ngày 5-12-1992).

Từ 1913, hai mươi tuổi, Phạm Quỳnh đã thử sức trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh với những bài khảo cứu, bình luận văn học nghệ thuật. Đến 1917, mới 24 tuổi nhưng đã có thâm niên 9 năm công tác nghiên cứu viết lách, ông chớp thời cơ nhận làm chủ bút phần quốc ngữ tạp chí Nam Phong, giành lấy cho mình và những người cùng chí hướng, yêu nước, đặc biệt yêu tha thiết tiếng ta, có chỗ để thi thố tài năng, góp sức xây dựng nền quốc học, mở mang dân trí, tăng tiềm lực cho đất nước sau này. Trên tạp chí Nam Phong, ngoài những việc không thể không làm trong một tờ báo mà thực tế là do người Pháp chi tiền và điều hành, ông đã khôn khéo đăng những bài văn yêu nước của người xưa và cả người đương thời, những bài về lịch sử chống ngoại xâm,v.v… làm nên cả một bộ bách khoa thư về lịch sử và đời sống Việt Nam phong phú. Cũng từ đó tập hợp được lực lượng yêu quốc văn, yêu quý lịch sử nước nhà, tạo điều kiện cho biết bao thanh niên nâng cao hiểu biết về nhiều mặt đời sống, vun bồi thêm lòng yêu nước sẵn có trong họ.

Năm 1925 Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) rồi đưa về Hà Nội giam ở nhà tù Hỏa Phan boi chau (tre)Lò, đem ra xét xử ở Hội đồng Đề hình là tòa án thực dân tàn bạo nhất thời ấy. Tất nhiên, kẻ đứng ra xét xử đều là người Pháp. Hơn nữa, dư luận người Pháp ở Đông Dương cũng như ở chính nước Pháp sẽ có tác động rất lớn, có thể nói là quyết định đối với vụ xử án này. Vì thế ông đã không phát biểu chính kiến trên Nam Phong, mà trên một tờ báo của Pháp có ảnh hướng rất lớn hồi bấy giờ. Hơn nữa viết trên báo tiếng Pháp thì tự do hơn, có thể trình bày hết ý mình, vì thời ấy báo tiếng Pháp không bị kiểm duyệt. Ông cho đăng trên tờ Indochine Républicaine bài lên tiếng công khai bênh vực Phan Bội Châu, yêu cầu khoan hồng cho nhà chí sĩ chỉ có “một tội” là “tội yêu nước như bất kỳ người Pháp nào yêu nước Pháp” (Chính Đạo: Hồ Chí Minh con người có huyền thoại, tập 2, 1925-1945, Văn hóa, Houston, Mỹ, trang 49, chú thích 8). Sáu tháng sau ngày bị bắt, 8 giờ 30 phút ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình xử vụ Phan Bội Châu. “Hội đồng Đề hình Pháp cho là: trong 8 tội đó có 6 tội đáng phạt đi đầy, 1 tội đáng khổ sai chung thân và một tội đáng tử hình (theo Bùi Đình: Vụ án Phan Bội Châu, NXB Tiếng Việt, Hà Nội, 1950). Tuy vậy, có lẽ vì sợ hậu quả của vụ án mà tới lúc này họ chưa thể lường được nếu xử tử hình Phan, nên vào phút chót sau một ngày xét xử, hội đồng này đã tuyên án Phan khổ sai chung thân (Nguyễn Quang Tô: Sào Nam Phan Bội Châu con người và thi văn, tủ sách Văn học, bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh Niên, Sài Gòn 1974).

Năm 1932, Phạm Quỳnh nhận vào Huế tham gia quPham Quynh_Trean trường với ý nghĩ ngây thơ là có điều kiện để những điều mà trước nay mình chỉ có thể luận bàn trên trang giấy và bằng lời nói thì nay có cơ thực hiện được. Mười ba năm ông làm quan thì có tới hơn chín năm làm Thượng thư Bộ Học. Ông kiên quyết chủ trương người Việt phải học tiếng Việt đã, chống lại chủ trương thịnh hành thời ấy là cho học ngay tiếng Pháp từ vỡ lòng “vì là thần dân của Đại Pháp thì học tiếng Pháp sớm ngày nào hay ngày nấy, dù sao rồi cũng ra làm việc cho Tây”. Ông cố gắng rất nhiều, nhưng mới chỉ thành công ở mức bắt buộc phải học tiếng Việt đạt bằng Sơ học yếu lược mới được thi tốt nghiệp tiểu học.

Năm 1933 mới làm quan được một năm ông đã viết thư cho Lu-i Mác-ti (Louis Marty) là giám đốc chính trị tùng sự tại phủ toàn quyền Đông Dương, cũng là “bạn cũ” đồng sáng lập tạp chí Nam Phong, để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Lu-i Mác-ti can thiệp giảm án. Trong thư đề ngày 18-1-1933, Phạm Quỳnh nêu rõ ông (ở Huế) viết thư này để giới thiệu em vợ là ông Lê Xuân đến gặp Lu-i Mác-ti ở Hà Nội, trình bày một việc bà mẹ vợ Phạm Quỳnh yêu cầu ông nhờ Lu-i Mác-ti giúp đỡ. Đó là vụ một chiến sĩ cộng sản 18 tuổi tên là Nguyễn Công Nghi bị bắt ở Kiến An vì một vụ “âm mưu Cộng Sản”, đã bị tòa án Kiến An kết án tù chung thân và hiện nay đang bị giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, sắp bị đầy đi Côn Đảo, thậm chí đầy đi ngoài xứ Đông Dương. Anh này là em ông Nguyễn Công Kính, chủ hãng thuốc lào Giang Ký danh tiếng ở Hà Nội , một người giàu có, đáng kính và có vai vế trong xã hội, lại là người có ân nghĩa lớn với gia đình vợ Phạm Quỳnh. Ông trình bày sơ qua vụ này và đề nghị Lu-i Mác-ti can thiệp, còn gợi ý nếu không thể tha được (Vì ông tin là anh ta vô tội) thì cho đi tù ở gần Hà Nội hoặc ít nhất cũng là vùng Bắc Bộ, đừng bắt đi Côn Đảo hay những nơi quá xa xôi. Vì gia đình ấy, ông anh cả không có con chỉ trông vào anh ta kiếm con trai nối dõi, mà anh lại cHoang Hy Nguyenhưa có vợ; không được thăm nuôi thì gia đình rất lo lắng, v.v… Ông cố hết sức dùng tình cảm riêng thân mật lâu năm với Lu-i Mác-ti để xin xử nhẹ tay với người cộng sản trẻ này. Tư liệu này chúng tôi được đọc là do sau khi Lu-i Mác-ti chết, bà vợ thấy có bút tích của Phạm Quỳnh, đã gửi lại cho bà Phạm Thị Ngoạn, con gái ông cũng là tiến sĩ Xoóc-bon (Sorbonne), Pa-ri, tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction Au Nam Phong)

Ông Phạm Tuân con trai út Phạm Quỳnh sinh năm 1936, đến nay (2008) còn nhớ rất rõ và kể cho người viết bài này kỷ niệm khó quên thời thơ ấu, đặc biệt là những ấn tượng lạ lùng về những lần được thân phụ dẫn đi thăm “ông già điên” ở túp lều tranh bên bến Ngự. Năm ấy ông mới lên bốn.

Các buổi chiều, cơm nước xong, thường bác tài Mai hỏi: “Chú Miềng (chú mình, nói trại giọng miền Trung) có theo Cụ đi chơi không…Hôm nay Cụ lại đến “ông già điên đây”. Ông nhớ hồi đó không biết người ấy là ai nhưng gặp thì thấy hiền hậu, dễ thương, hay hỏi chuyện trẻ con dễ hiểu mà cũng dễ trả lời, nên ông thường bám xe đi theo cha luôn. Cha và ông già ăn mặc xuềnh xoàng, râu tóc dài, xơ xác thường vào trong nhà nhỏ to trò chuyện một lát rồi ra về. Vẻ thân mật lắm, nhất là lúc mới đến và khi sắp ra về. Cuối năm ấy ông già mất, ông Tuân mới nghe cha nói đó là Cụ Phan Bội Châu.

Ngày 24-12-1925, một tháng một ngày sau hôm xử án tại Hà Nội kết án khổ sai chung thân thì toàn quyền Va-ren (Varenne) vốn là Đảng viên Đảng Xã Hội Pháp ký quyết định “ân xá Phan Bội Châu. Tuy “được ân xá”, nhưng, thật ra ông bị giam lỏng ở bến Ngự (Huế), bị mật thám theo dõi, kiềm chế mọi hoạt động. Ông dựng một túp lều ở bến Ngự và sống ở đấy suốt 15 năm cuối đời. Nơi đâPhan boi chau (gia)y biến thành nơi tập trung của thanh thiếu niên và học sinh Huế, tới để yết kiến, chiêm ngưỡng vị anh hùng dân tộc. Nơi đây cũng thường lui tới một số công chức còn nặng tình dân tộc, sùng bái các vị anh hùng, vĩ nhân đã hiến trọn cuộc đời cho đất nước (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).

Biết cảnh sống khó khăn của Phan Bội Châu, nhiều người đã gửi ngân phiếu nặc danh giúp ông tiền bạc, nhiều đến nỗi Phan Bội Châu bị phiền hà. Ông đã phải buộc lòng từ tạ bằng một bức thư với lời lẽ chân tình tha thiết. Trùm mật thám Trung kỳ Xô-nhi (Sogny) đã bủa một mạng lưới mật thám dày đặc bao vây túp lều bến Ngự. Mà hồi ấy, theo như chính lời Phan Bội Châu nói (do Lạc Nhân, nguyên thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân ghi lại đăng trên báo Tiếng Dân năm 1933) thì: “Tôi không hề kêu ca, nhưng trong nhà nhiều miệng ăn, nào là các đồng chí đi đầy về đã quá già, không biết làm gì để sống, cũng phải tới đây chung sống với tôi, nào con cháu các đồng chí, kẻ chết chém, người chết trong lao, tôi phải nuôi dưỡng vì không biết bỏ cho ai bây giờ”. Trong số đó có Phạm Công Nguyệt con trai độc nhất của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, chưa từng được biết mặt cha. Anh được Phan Bội Châu nuôi cho ăn học tại trường Khải Định Huế đến Nha Phan Boi Chauđỗ tú tài triết học. (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).

Ngày 29-10-1940, Phan Bội Châu mất, thọ 74 tuổi. Mai táng trong chiều ngày kế tiếp, theo đúng di chúc của Cụ. Ngoài những người thường ngày gần gũi bên cụ, không mấy ai dám lai vãng, sợ ty Liêm phóng theo dõi rầy rà. Theo Nguyễn Quang Tô: “hàng trăm, ngàn câu đối, văn tế được gửi trực tiếp đến nhà hoặc đăng báo, hay truyền tụng miệng cho nhau nghe… tạo thành một bầu không khí bi hùng tràn ngập khắp Trung Nam Bắc. Một số người còn gửi tiền về tòa soạn báo Tiếng Dân nhờ lo xây dựng phần mộ. Lại có những người thuộc hạng “tai to mặt lớn” đã phải lén lút chui lòn cửa sau nhà Phan để được tới trước bàn thờ Phan dâng điếu lễ và tấm lòng kính mộ.”

Không biết trong số những người “gửi ngân phiếu nặc danh”, “gửi tiền nhờ báo Tiếng Dân”, “lén lút chui lòn cửa sau” có Phạm Quỳnh không? Tôi nghĩ, công bằng mà nói, khó có thể trả lời dứt khoát là không.

Bởi, chỉ cần xua đi lớp bụi thành kiến kì thị dầy đặc đã chôn vùi cuộc đời ông suốt hơn nửa thế kỉ qua, ta thấy ngay ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC.

Những dòng tôi viết trên đây chỉ là nhân đọc bài của nhà báo lão thành Đặng Minh Phương mà nghĩ tới thôi, hoàn toàn không có ý trả lời, thảo luận hay tranh luận gì cả. Tôi viết chỉ là vì tâm đắc với L.T.S in trước bài ông là: “đánh giá công minh người và việc của quá khứ là việc khó. Nó cần rất nhiều điều kiện mà trước hết cần chỗ đứng nhìn, cần hiểu bối cảnh lịch sử và tư liệu lịch sử…Ngày nay chúng ta cần có thái độ cởi mở khoan dung, gạn lọc công bằng…nhưng cũng không được làm đảo lộn lịch sử, lờ mờ thật giả, đưa đến sai lệch nguy cơ cho lịch sử và cho cả hiện tại”

 Ngày 8-8-2008

Phạm Tôn

 Chú thích những chữ in trên giấy Phạm Quỳnh dùng viết thư cho Lu-i Mác-ti:

    • Bằng tiếng Pháp:
      • Palais Inpérial: Hoàng Cung
      • Cabinet Civil de Sa Majesté: Ngự tiền Văn phòng
    • Bằng chữ Hán:
      • Ngự tiền Văn phòng dụng tiên: Giấy viết thư Ngự tiền Văn phòng dùng

Thu gui Louis Marty

Tháng Tám 9, 2021

Tư liệu nhà văn Sơn Tùng – “GIẾT MỘT HỌC GIẢ NHƯ VẬY THÌ NHÂN DÂN TA ĐƯỢC GÌ? CÁCH MẠNG ĐƯỢC LỢI ÍCH GÌ? (…) ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI XẤU!”

Filed under: Tìm hiểu Phạm Quỳnh — phamquynh @ 7:06 sáng

Blog PhamTon năm thứ mười ba, kỳ 1 tháng 8 năm 2021.

TƯ  LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG

VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI

THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.

Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.

Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.

Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.

—-o0o—-

PHẦN 2: “GIẾT MỘT HỌC GIẢ NHƯ VẬY THÌ NHÂN DÂN TA ĐƯỢC GÌ? CÁCH MẠNG ĐƯỢC LỢI ÍCH GÌ? (…) ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI XẤU!”

Lời dẫn của Phạm Tôn: Những lời nói ngay từ tháng 9/1945 khẳng định chắc chắn, dứt khoát ấy của Hồ Chủ tịch đã được thuật lại rõ ràng trong bài Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 140, tháng 8/2006 và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9/2006.

—-o0o—-

Sau khi thoái vị, cựu hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy nhận lời mời Hồ Chủ tịch ra Hà Nội, ngày 4/9/1945. Ngay hôm sau, ngày 5/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghênh tiếp cựu hoàng Bảo Đại – Vĩnh Thụy tại Bắc Bộ phủ từ 8-9 giờ. Và ngày 10/9 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử ông Vĩnh Thụy làm cố vấn Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Tiếp theo, các vị cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, cựu Tổng đốc Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hồ Đắc Điềm ứng đáp lời mời Hồ Chủ tịch ra gánh vác việc nước. Trong thời khắc này ông Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế, ông đến nhà số 8 Lê Thái Tổ bên Hồ Gươm gặp Bác Hồ (từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, Bác ở nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô – Hoàng Thị Minh Hồ một nhà tư sản yêu nước, danh nho. Bác viết Tuyên Ngôn Độc Lập tại đây. Sau ngày người đọc Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9, Bác về ở nhà số 8 phố vua Lê Thái Tổ, hằng ngày đến Bắc Bộ phủ làm việc.)

Ông Vũ Đình Huỳnh kể:

– Ông chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế Tôn Quang Phiệt đến Bắc Bộ phủ, đồng chí thường trực văn phòng đưa khách vào phòng đợi rồi đến báo với tôi. Tôn Quang Phiệt, một danh sĩ tôi nghe tiếng từ lâu, nay mới gặp lần đầu. Hai chúng tôi tay bắt mặt mừng… Anh xin được gặp Ông Cụ, nhiều vấn đề phải thưa ngay với Cụ. Tôi hẹn anh Tôn Quang Phiệt, hiện giờ Ông Cụ đang bàn công việc khẩn, tướng Lư Hán đến Hà Nội rồi. Sáng mai Ông Cụ hội đàm với Lư Hán… Tôi vào phòng họp, báo với Bác: – Ông Tôn Quang Phiệt trong Huế ra đang ở phòng khách, xin Bác cho gặp chiều hôm nay, có được không. Lúc nói đến ông Tôn Quang Phiệt, Bác và anh Võ Nguyên Giáp đều biểu lộ sự vui mừng tái ngộ. Bác nói: – Ông Tôn Quang Phiệt là chỗ quen biết. Ngày còn nhỏ, tôi theo cha lên Võ Liệt, Nguyệt Bồng huyện Thanh Chương để học, Tôn Quang Phiệt bấy giờ độ 4,5 tuổi…Chú Tư hẹn với chú Phiệt đúng 16 giờ gặp nhau ở “Bát số” (số 8, phố vua Lê Thái Tổ – tiếng lóng, mật hiệu). Chiều hôm ấy, Hồ Chủ tịch làm việc với ông Tôn Quang Phiệt tại đây. Chính trong buổi làm việc này, ông Tôn Quang Phiệt báo với Hồ Chủ tịch: “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử mất rồi!” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) Bác thu hai cánh tay vào sát ngực tựa lên mặt bàn, lặng ngắt một lúc…Người nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì?” Người duỗi hai tay ra mặt bàn: “Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!”

PHẦN 3: “LÚC NÀY CÒN CỤ PHẠM QUỲNH THÌ…”

Hồ Chủ tịch, Thượng khách thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp từ 31/5 đến 20/9/1946. Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch. Ông Vũ Đình Huỳnh vừa nói, vừa mở tập Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn tháng sang Pháp –Đ.H viết là sở cứ: …“Pháp không chịu công nhận Việt Nam độc lập mở chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 đang lan rộng ra Nam Trung Bộ mà lại mời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thượng khách thăm chính thức nước Pháp, đó là điều chưa từng có trong lịch sử. Còn kỳ lạ hơn, sau lễ đón nghi thức nguyên thủ quốc gia tại phi trường Le Bourget ngày 22/6/1946, Hồ Chủ tịch về nhà khách chính phủ Royal Monceau. Tại đây, liên tiếp các chính khách, các nhà văn hóa danh tiếng, các tướng lĩnh, các văn nghệ sĩ, báo giới, các đảng lớn ở Pháp… đến chào Hồ Chủ tịch.

Người đến chào Hồ Chủ tịch đầu tiên là Đại tướng Juin, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp. Rồi Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Moutet, Bộ trưởng Justin Godart, nhà kiến trúc sư danh tiếng Francis Jourdain, giáo sư nghị viện Privet CTS Paillet, tướng Petit, chủ tịch báo giới Cộng hòa Pháp Bayet, trạng sư Nordman, văn sĩ Bloch, bà Cotton lãnh tụ phụ nữ Dân chủ. Điều lạ là, Đảng Cộng hòa bình dân (MRP- đảng của thủ tướng Bidault) do ông Schuman chủ tịch đảng dẫn đầu đoàn, ông Francisque Gay – Bộ trưởng, ông Michelet – Bộ trưởng, ông Collin ủy viên trung ương, ông Gortais ủy viên trung ương, ông Debey- ủy viên trung ương, ông Ammury ủy viên trung ương, ông Terrenoir – ủy viên trung ương, ông Max André- trưởng đoàn đại biểu Pháp, Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau. Kế đến là đoàn Đảng Xã hội Pháp đến chào Hồ Chủ tịch gồm có bà Morty Capgras, ông Moutet – Bộ trưởng, ông Philip-Bộ trưởng, ông Luyssy nghị viên, ông Rosenfeld- Viện sĩ, ông Boutbrien- bác sĩ và các ủy viên trung ương Roux, Stble, Dechezelles… Hồ Chủ tịch từng sinh hoạt trong đảng Xã hội… các vị vui chuyện với Người suốt 8 giờ tối đến 2 giờ sáng… Đoàn Đảng Cộng sản Pháp: Hai ông bà Cachin, Thorez Phó chủ tịch chính phủ, bà Braun Phó chủ tịch Quốc hội, bà Jeannette Vemersche nghị viên, bà Vaillant Couturier nghị viên, Duclos Phó chủ tịch Quốc hội, Marty ủy viên trung ương, Mauvais ủy viên trung ương, Billoux Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tillon Bộ trưởng Bộ quân khí…

Một đoàn văn sĩ, thi sĩ lừng danh thế giới đến chào Hồ Chủ tịch: Triolet, Aragon, Richard Bloch, Boene, Moussinac, Masson, Séghers, Pierre Emmanuel. Ông bà Joliot Curie hai nhà bác học thế giới đến chào Hồ Chủ tịch rất thân tình, đàm đạo gần hai tiếng đồng hồ. Về sau, hai nhà bác học Joliot Curie còn gặp Hồ Chủ tịch mấy lần…Lại…không thể tưởng tượng nổi, nhà danh họa Picasso gặp Hồ Chủ tịch ôm choàng lấy nhau hồi lâu! Vừa hàn huyên Picasso vừa ký họa chân dung Hồ Chủ tịch. Bức chân dung lịch sử ấy người giao cho tôi cất giữ. Hơn hai mươi năm sau tôi gặp họa, bị khám nhà nên không còn nữa.

Đến như cựu Toàn quyền Đông Dương hai lần A.Saraut cùng với con rể là Thượng sứ Sainteny đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và ôm chặt lấy Nguyễn Ái Quốc năm xưa trước quan khách trong bữa tiệc long trọng!

Trước ngày khai mạc hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau, Hồ Chủ tịch gặp mặt tất cả phái đoàn: ông Phan Anh, ông Bửu Hội, ông Hoàng Minh Giám, ông Nguyễn Văn Huyên, ông Trịnh Văn Bính, ông Dương Bạch Mai, ông Nguyễn Mạnh Hà, ông Tạ Quang Bửu, ông Đặng Phúc Thông, ông Huỳnh Thiện Lộc, ông Chu Bá Phượng, ông Hoàng Văn Đức. Trưởng đoàn là ông Phạm Văn Đồng. Lúc các thành viên đoàn Việt Nam vào đủ trong phòng, Hồ Chủ tịch nói với ông Phạm Văn Đồng, có ông Đỗ Đình Thiện và tôi (Vũ Đình Huỳnh): “Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Người im lặng. Ông Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Mà cũng chỉ có Bác Hồ! Sau khi ở Pháp về, ngày 4/12/1945, trong phiên họp Chính phủ Người đề nghị trợ cấp hằng tháng cho hai bà Thành Thái, Duy Tân mỗi bà 500 đồng Đông Dương

Lời bình của Phạm Tôn: Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu năm nay 89 tuổi, vừa nhận giải thưởng “Nghiên cứu – 2008” của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh, công nhận thành tựu suốt đời của cụ. Trong một lần vui chuyện cụ đã kể cho chúng tôi: Năm nọ, thành phố Hồ Chí Minh có yêu cầu Giáo sư Trần Văn Giàu và cụ chủ biên một tập sách giới thiệu toàn diện về Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Khi cùng làm việc với nhau, bỗng một hôm Giáo sư Trần Văn Giàu thở dài: “Giá như bây giờ còn cụ Phạm Quỳnh, có phải là đỡ không…” Câu nói ấy vô tình gần giống hệt lời Hồ Chủ tịch nói năm 1946, trước ngày khai mạc Hội nghị Việt Pháp tại Fontainebleau trên đất Pháp.

Địa chỉ liên hệ blog chúng tôi là:

PHẠM TUYÊN: N2  P305 Ngõ 40 Vạn Bảo, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: (+84) – 4 – 3832.5283
Mobile: (+84) – 913.043.580
Email: phamtuyen1930@yahoo.com.vn
hoặc
TÔN THẤT THÀNH: 82 Lý Chính Thắng, Phường 8, Quận 3, Tp.HCM
Điện thoại: (+84) – 8 – 3848.0803
Email: thanh.phamton@gmail.com
Trang sau »

Tạo một blog miễn phí với WordPress.com.