Blog PhamTon năm thứ ba, tuần 1 tháng 11 năm 2012.
THÊM MỘT VỤ ÁN ĐÃ SÁNG TỎ
Nguyễn Hương
(Hà Nội)
Ở Hà Nội còn có trường hợp một vụ án nữa đã kết thúc, giống như trường hợp nhà báo Quang Đạm mà Blog Phạm Tôn đã đưa lên mạng.
Đó là trường hợp của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Gia đình luật sư hiện đang ở số nhà 34 phố Tăng Bạt Hổ, một biệt thự cổ mà luật sư mua từ năm 1946, đúng vào ngày ký Hiệp định Sơ Bộ 6-3-1946 giữa ta và Pháp. Nhà hiện có bốn hộ ở chung, số điện thoại gia đình luật sư là 3972.5521. Tại đây, phu nhân luật sư là bà Tống Lệ Dung (con gái cụ Tống Nguyên Lễ, kỹ sư hóa chất du học ở Pháp về) cùng con gái là chị Dung Nghi – công tác ở Tổng cục Bưu điện và chồng là nhạc sĩ Hồ Quang Bình, chủ tịch hội âm nhạc Hà Nội. Bà Lệ Dung ngày ấy đã đỗ tú tài Tây, lẽ ra có thể có “công danh” nhưng bà tự nguyện làm “chỗ dựa” cho chồng, chia sẻ gian khổ với ông trong kháng chiến chống Pháp. Khi ông bị nạn, bà tận tình chăm sóc ông cho đến ngày cuối đời. Năm nay, với 95 tuổi Trời Phật ban cho, bà Lệ Dung vẫn không quên quá khứ ngọt ngào pha lẫn đắng cay của gia đình.
Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909, năm 23 tuổi đã đỗ hai bằng tiến sĩ Văn Khoa và Luật Khoa tại trường đại học Montpellier ở Pháp. Về nước, ông không “làm quan” mà đi dạy học ở trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An) ngôi trường đã “sinh ra” những Nguyễn Văn Cừ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Đạo Thúy…
Dù đã đi dạy, nhưng ông vẫn bị chính quyền Pháp “quấy rầy”. Ông bèn mở văn phòng luật sư riêng để “cãi cho người ngay, người tốt”, chống lại sự bất công, vu oan, giá họa… Luật sư Nguyễn Mạnh Tường có nhiều bạn thân cùng chí hướng. Khi chính phủ Hồ Chí Minh thành lập, một bạn thân của ông là giáo sư Nguyễn Văn Huyên được cử giữ chức Bộ trưởng – dù chưa phải Đảng viên.
Ông thì được mời nhận một số công tác tại Hà Nội. Năm 1946, luật sư Nguyễn Mạnh Tường được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử tham gia đoàn ta dự Hội nghị Đà Lạt. Theo nhiều nguồn tin, Bác đã nói với luật sư đại ý rằng: “ Chú là nhà luật, thầy cãi, chú phải cãi cho đúng lẽ…”
Toàn quốc kháng chiến, ông lên Việt Bắc, đi theo Cụ Hồ “kháng chiến trường kỳ” cho đến ngày quân ta tiếp quản Hà Nội tháng 10 năm 1954. Ông được bổ nhiệm dạy học tại trường Đại học Văn Khoa và là ủy viên Trung ương của Mặt trận. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi Chính phủ và Đảng nhận thấy sai lầm trong cải cách ruộng đất và đã sửa sai, theo yêu cầu của Mặt trận, ông đọc một bài tham luận.
Là một trí thức – không thể im lặng, lại là một luật sư – ông không chấp nhận những gì, những ai làm trái pháp luật, công lý…Bài tham luận góp ý kiến của luật sư Nguyễn Mạnh Tường dài trên 20 trang đánh máy, đã nói rõ thêm những khuyết điểm trong cải cách ruộng đất lúc bấy giờ.
Trong bài tham luận này, ông hoan nghênh tiến hành cải cách ruộng đất, vận động nhân dân thực hiện, nhưng không đồng tình phương pháp “đấu tố”. Ông cho rằng ta có chính quyền, “nếu ta biết sử dụng chính quyền, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công, ta tránh được bao tai họa làm ta đau khổ hiện thời”. (nguyên văn ý kiến của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường).
Ông không đồng ý “Thà 10 người chết oan còn hơn để sót một địch”, mà phải theo luật pháp: “Thà 10 địch bỏ sót còn hơn một người chết oan”. Và kết án người bị tội phải có nguyên tắc: không lấy tội xưa mà bắt tội nay, trách nhiệm bị can là của riêng bị can, gia đình họ hàng không chịu liên đới, phải có bằng chứng xác đáng, phải có tòa án xét xử qua điều tra, phải có luật sư bào chữa, bị can có quyền minh oan, kháng cáo, xin giảm tội…
Các nguyên tắc ấy đã không được tôn trọng mà “xử lý” một cách bất chấp luật pháp, bất chấp chuyên môn, lấy chính trị lấn át pháp lý để xảy ra “ta lại đánh ta”-“quân ta đánh quân mình” “đánh cả bạn, xử cả bạn”
Trớ trêu thay vì sự “hăng hái”, “chân thành”, “chí công vô tư” này của một trí thức, mà luật sư đã bị “đa số” tước bỏ mọi chức vụ, danh vị nghề nghiệp, sống cuộc đời thiếu thốn về vật chất, đau khổ về tinh thần, bế tắc không sao lí giải được, lao động như một người cùng khổ để mưu sinh…
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Đảng ta, Chính phủ ta có điều kiện tổng kết lại nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa… Khi nhìn lại cuộc cải cách ruộng đất những năm 1953-1956, Bộ Chính trị nhận xét “vận dụng kinh nghiệm ngước ngoài một cách giáo điều”, “có thể hoàn toàn làm bằng một phương pháp khác”.
Ý kiến này trùng hợp với ý kiến của luật sư Nguyễn Mạnh Tường 20 năm trước
Là luật sư nhưng ông lại bị xử lý không có chứng cớ nào khác ngoài bài tham luận được đọc trước Trung ương Mặt trận – không được luật sư bào chữa, chính luật sư lại bị luật pháp “ngược đãi”.
Sau năm 1975, tuy cuộc sống có khá hơn, ông đã đôi ba lần xin đi chữa bệnh ở nước ngoài, nhưng không được phép. Bạn bè cũng ít ai dám đến thăm …
Năm 1991, Đảng và Nhà Nước cho phép ông sang Pháp chữa bệnh, “giối già”.
Cuối năm 1994, Tổng bí thư Đỗ Mười đã đến thăm ông ở nhà riêng.
Như một hành động vẫn giữ tấm lòng ngay thẳng, yêu nước, ông đã giao cho nhà xuất bản Quê Mẹ ở Pari in và phát hành cuốn sách tự thuật viết bằng tiếng Pháp L’excommunité (Người bị khai trừ) vào năm 1992; sau đó trở lại Hà Nội và mất vào năm 1997. Đám ma ông được nhiều nhà trí thức, khoa học, luật gia…đưa tiễn. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã gửi vòng hoa viếng.
Bằng cách cho ra nước ngoài, một việc rất khó trong những năm 90 thế kỷ trước, rồi Tổng bí thư Đỗ Mười đến thăm tại nhà riêng và khi ông mất, thỉ gửi vòng hoa viếng, bằng việc chấp nhận con cháu vào công tác trong cơ quan Nhà nước, đồng ý để con rể làm chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội (vị trí trước đó là của nhạc sĩ Phạm Tuyên), Đảng và Chính phủ như có ý nhắn nhủ rằng “vụ án của luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã được xóa”- một kết luận bằng hành động chứ không phải bằng văn bản hành chính, giấy tờ. Gia đình luật sư Nguyễn Mạnh Tường và công luận phải tự hiểu.
Đối chiếu với “vụ án” Phạm Quỳnh, trộm nghĩ rằng “cũng như thế”
Bằng việc cho tái bản các tác phẩm của Thượng Chi – Phạm Quỳnh tiên sinh, cho in sách viết về Phạm Quỳnh, cho phép tổ chức hội thảo…rồi đến ân tình của Chủ Tịch nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Đảng đến nhà thăm hỏi dịp Tết Nhâm Thìn…đối với nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai nhà văn hóa lớn Phạm Quỳnh, nhân dân cả nước, bạn bè ở nước ngoài, Việt kiều, con cháu Phạm Quỳnh có thể tạm hiểu một cách có căn cứ rằng “vụ án của Phạm Quỳnh coi như đã được xóa”.
Thật là phúc đức, ơn Trời, ơn Phật…!
Tuy nhiên nếu có một cuộc toạ đàm lịch sử, khoa học, văn học về Phạm Quỳnh để có những kết luận cho sau này khi viết lại lịch sử Việt Nam, lịch sử văn học, lịch sử báo chí Việt Nam, đưa vào sử sách, vào trường học…thì vẫn nên và tốt hơn hết là có một cuộc hội thảo quốc gia nhân dịp 30/1/2013 kỷ niệm 120 năm ngày sinh cụ Phạm.
Hải Dương, Huế hoặc Hà Nội nên tổ chức cuộc trao đổi ấy và có thể mời những ai tán thành, phản đối…mời các quan chức ngành tuyên giáo, các hội khoa học lịch sử, hội nhà báo, hội nhà văn…tham dự, phân rõ cái được, cái chưa được của Phạm Quỳnh và những giá trị của cụ Phạm (cách xưng hô của Bác Hồ) đã để lại cho, đất nước, con cháu chúng ta sau này.
Một nén hương thơm
Một tấm lòng ghi nhận , tri ân
N.H.