Pham Ton’s Blog

Tháng Bảy 11, 2014

Tôn Quang Phiệt và vụ án Phạm Quỳnh (năm 1945)

Filed under: Ý kiến — phamquynh @ 12:51 sáng

Blog PhamTon năm thứ sáu, tuần 3 tháng 7 năm 2014.

Tôn Quang Phiệt và vụ án Phạm Quỳnh (năm 1945)

Kiều Mai Sơn

(Bài thu từ http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa chủ nhật, ngày 29/6/2014. Hai ảnh minh họa do chúng tôi đưa vào bài)

 

Tôn Quang Phiệt [1900 – 1973]

Tôn Quang Phiệt có thời gian hoạt động lâu dài tại Huế và với vai trò quan trọng của mình, ông biết rất rõ về Phạm Quỳnh cũng như những tình tiết cụ thể của câu chuyện bắt giữ và xử tử Phạm Quỳnh trong Cách mạng tháng Tám 1945.

Tôn Quang Phiệt sinh năm Canh Tý (1900) trong một gia đình nhà Nho tại xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Họ Tôn vốn gốc từ Yên Hồ (Đức Thọ – Hà Tĩnh) sau dời đến Võ LiệtTon Quang Phiet. Thân sinh Tôn Quang Phiệt sinh năm 1870, đỗ Tú tài năm 1900, làm nghề dạy học chữ Nho. Khi triều đình bỏ thi cử Hán học, ông chuyển sang buôn gạo vài chuyến rồi làm gỗ trong rừng.

Thuở nhỏ,Tôn Quang Phiệt học chữ Hán ở nhà với cha trong suốt 10 năm. Năm 15 tuổi, ông đi thi hạch và học thêm chữ Hán ở nhà Đốc học là Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm. Năm 1920-1921, Tôn Quang Phiệtvào học bậc Thành chung tại trường Quốc học ở Vinh, do các thầy người Việt Nam như Nguyễn Bá Luân (con rể vua Thành Thái), Lê Thước (giải nguyên Hán học) dạy dỗ, mà Hiệu trưởng là ông Jurugne – người Pháp. Bạn đồng môn với Tôn Quang Phiệt ở trường này có như Đặng Thai Mai, Nguyễn Sỹ Sách, Phạm Thiều, Lê Xuân Phương, Phan Trọng Bình, Ngô Đức Trì…

Năm 1923 , Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội học Cao đẳng Sư phạm Đông Dương . Năm1925, ông cùng Đặng Thai Mai, Phạm Thiều… sáng lập tổ chức Việt nam Nghĩa Đoàn , tham gia đấu tranh đòi thực dân Pháp thả cụ Phan Bội Châu. Tổ chức này sau đó được thống nhất với Hội Phục việt   của Giải nguyên Lê Văn Huân và Trần Mộng Bạch ở Vinh. Tôn Quang Phiệt được cử làm Hội trưởng Hội Phục Việt. Tháng11 – 1925 Hội Phục Việt đổi tên thành Hội Hưng Nam, rồi cuối cùng là Đảng Tân Việt (1928), một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.Tháng 6 năm1926, Tôn Quang Phiệt cùng Trần Phú, Vương Thúc Oánh… được Lê Duy Điếm dẫn đường sang Trung Quốc gặp các nhân vật trongViệt nam cách mạng đảng. Trên đường đi đến Móng Cái, ông bị Pháp bắt (cùng với Hoàng Tùng) sau đó bị đem về giam tại Hà Nội.

Từ1936 – 1945, Tôn Quang Phiệt tham gia vào Mặt trân dân chủ, dạy học tại trường tư thục Thuận Hóa (Huế) tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ Huế do Hồ Đắc Hàm và Nguyễn Khoa Toàn làm Hội trưởng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, ông hoạt động trong Thành bộ Việt Minh tỉnh Nguyễn Tri Phương (mật danh của Thừa Thiên Huế).

Cách mạng Tháng Tám thành công, Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng và Ủy ban Hành chính đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Phác nhanh mấy nét ở trên cho thấy, Tôn Quang Phiệt có thời gian hoạt động lâu dài tại Huế và với vai trò quan trọng của mình, ông biết rất rõ về Phạm Quỳnh cũng như những tình tiết cụ thể của câu chuyện bắt giữ và xử tử Phạm Quỳnh trong Cách mạng tháng Tám 1945.

CUỘC KHỞI NGHĨA Ở HUẾ VÀ THỪA THIÊN

Cuộc khởi nghĩa ở Huế và Thừa Thiên – là tên một bài viết riêng trong cuốn sách Hà Nội – Huế – Sài Gòn tháng 8-1945 của 3 tác giả Minh Tranh – Quốc Quang – Nguyễn Văn Trấn, được Nhà xuất bản Văn hóa phát hành năm 1958. Tác giả bài viết về Cuộc khởi nghĩa ở Huế và Thừa Thiên là Quốc Quang.

Tự đánh giá “Cuộc khởi nghĩa ở Huế và Thừa Thiên có một tầm quan trọng đặc biệt”, tác giả đã phân tích các lẽ quan trọng như sau:

“1. Huế là thủ đô của Trung Kỳ, phạm vi cai trị của vua và của triều đình Huế. Các cơ quan đầu não của Trung Kỳ tập trung ở Huế, như các ngành công chính, thương chính, giáo dục, ngân hàng. Các tỉnh Trung Kỳ nhìn vào Huế là chỗ trung tâm hành chính, chính trị, văn hóa. Những biến cố xảy ra ở Huế nhất định ảnh hưởng đến cả 13 tỉnh Trung Bộ và cả nước, vì trước khi Pháp chiếm, nước ta gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mà kinh đô là Huế. Dưới thời Nhật thuộc, chính phủ Trần Trọng Kim cũng tự coi như đã chủ tể cả đất nước, phong khâm sai cho Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Vì thế trước ngày khởi nghĩa các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Huế cho rằng Huế như đầu con rắn, đánh vào đầu là giết chết cả con rắn; Huế bị đổ thì các tỉnh Trung Kỳ không dựa vào đâu nữa.

2. Huế là nơi nhiều quan lại, nhiều công chức hoặc đang tại chức, hoặc đã về hưu. Trong bọn quan lại về hưu có một số trước đã làm quan to trong triều đình. Bọn này phần lớn tư tưởng rất phản động. Vô hình chung họ thành ra một lực lượng phản cách mạng cần phải để ý. Tuy rằng trong đó có các nhânPham Quynh 1930 viên cấp dưới thì hoặc muốn yên thân, hoặc có cảm tình với cách mạng.

Vì các lẽ trên nên cuộc khởi nghĩa ở Huế rất quan trọng, không những quan trọng vì bản thân Huế mà lại quan trọng đối với Trung Kỳ, đối với toàn quốc nữa”.

Về việc bắt giữ Phạm Quỳnh, Quốc Quang viết trong chương khởi nghĩa ở Thừa Thiên – Huế, như sau:

“Ủy ban khởi nghĩa Thuận Hóa quyết định ngày 23/8/1945 lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền.

Sở dĩ lấy ngày 23/8 là vì chính phủ Trần Trọng Kim đã quyết định lấy ngày ấy tổ chức mít tinh mừng việc Nhật trao trả Nam Kỳ cho chính phủ Nam triều. Ủy ban khởi nghĩa định biến cuộc mít tinh ấy thành cuộc biểu tình của nhân dân đánh đổ chính phủ bù nhìn.

Quyết định của Ủy ban khởi nghĩa: “Một mặt huy động một số xe ô tô của thành phố, điều động một ít lực lượng võ trang đi bắt một số Việt gian thân Nhật, thân Pháp đầu sỏ là cha con Ngô Đình Khôi (con là Ngô Đình Huân làm thư ký riêng cho cố vấn tối cao Nhật), Phạm Quỳnh và con rể hắn là Nguyễn Tiến Lãng”.

Cuốn này tuy không viết cụ thể quá trình bắt giữ Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân ra sao, nhưng có một câu quan trọng đáng chú ý: “Việc đi bắt mấy tên Việt gian cũng không xảy ra cản trở gì. Phạm Quỳnh cũng như Ngô Đình Khôi đều ngoan ngoãn theo lệnh đi lên ô tô để vào nhà lao Thừa Thiên chịu tội”.

Dành phần cuối cùng với tên gọi “Một vài nhận xét về cuộc khởi nghĩa ở Huế”, Quốc Quang viết:

Về ưu điểm: “Thái độ khoan hồng của Ủy ban nhân dân cách mạng là cứ để cho họ [những quan lại cũ và công chức trong chính phủ Trần Trọng Kim – KMS chú] tự do mà không bắt bớ giam giữ gì là hợp tình thế. Huế lại là một nơi nhiều quan lại to hoặc tại chức, hoặc đã về hưu, nếu ta có thái độ khe khắt đối với bọn Trần Trọng Kim sẽ làm cho một số đông khác hoang mang, dao động, không lợi cho lúc bấy giờ là lúc mà ta cần có một tình hình ổn định. Vì thế ở Huế lúc bấy giờ chỉ bắt những bọn đầu sỏ thân thân (có lẽ là thân Nhật, đánh máy lầm – PT chú), thân Pháp như Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh bị nhân dân oán ghét nhiều và đang có nguy hại trước mắt mà thôi.

…Về khuyết điểm: “Đối với những tên Việt gian đầu sỏ nhân dân quá oán ghét mà phải xử trí cũng nên có sự tuyên bố tội trạng trước nhân dân trong các báo chí để về sau bọn phản động không thể xuyên tạc được sự thực. Điều đó ta không làm công khai”.

Tác giả Quốc Quang là ai? Đó chính là bút danh của Tôn Quang Phiệt./.

Hà Nội, ngày 14/5/2014

K.M.S.

 * “Bà Phạm Thị Thức, em bà Giá, là vợ cố giáo sư Đặng Vũ Hỷ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1. Con trai út bà đã kể lại rằng trong một lần cùng đi máy bay sang Béc-lin (Cộng hòa dân chủ Đức) chữa bệnh, ông Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế hồi Cách mạng Tháng 8, đã cố tìm gặp giáo sư Đặng Vũ Hỷ chỉ để nói một điều là: “Tôi đã nhiều lần muốn gặp anh để nói với anh về chuyện cụ nhà (Phạm Quỳnh). Hồi ấy, tôi ở Huế thật, nhưng hoàn toàn không dính gì vào vụ này, chỉ biết khi chuyện đã xảy ra rồi.” Ta không thể không tin lời của một trí thức cỡ lớn nói với một trí thức cỡ lớn như vậy”.(Phạm Tôn: Người nặng lòng với nước, Tạp chí Xưa và Nay, số 267, tháng 2/2006)

* “Trong hồi kí của mình Nhớ lại một thời, do nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản tháng 8/2000, tại Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế ngày ấy, đã nêu rõ: chính ông đã đề nghị tỉnh uỷ, ngay từ khi về đến Huế, là rút khẩu hiệu “Đánh đuổi giặc Nhật, tiễu trừ Việt gian” đã nêu trước đó trong cả nước. Và trong ngày khởi nghĩa tại Huế 23/8/1945, chính ông đã tuyên bố “bảo đảm tính mạng và tài sản cho toàn thể đồng bào” trước đông đảo nhân dân tập trung ở sân vận động Huế. Trong những năm 90 thế kỉ trước, ở chỗ riêng tư, ông còn thổ lộ là: “Mấy chục năm qua, tôi vẫn áy náy, day dứt về việc cụ Phạm Quỳnh.”

Thế là cả Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế đều không biết gì về việc “xử tử hình Phạm Quỳnh”, nói gì đến xét xử, kết án…”(Phạm Tôn: Người nặng lòng với nước, Tạp chí Xưa và Nay, số 267, tháng 2/2006)

 

Gửi bình luận »

Không có bình luận

RSS feed for comments on this post. TrackBack URI

Bình luận về bài viết này

Tạo một blog miễn phí với WordPress.com.